Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2014

Rượu của người Cơtu*

Lấy rượu Tà Vạc - Nguồn: Internet


RƯỢU TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI KATU

                                   
                         Trần Đức Sáng

1. Dẫn luận
1. Rượu trong văn hoá nhân loại hình như đã trở thành mẫu số chung gắn liền với nhiều hoạt động. Từ những cộng đồng nguyên thuỷ sơ khai cho đến những hội đã thấm đẫm tư duy triết học, họ đều gặp nhau ở quan niệm “Vô tửu bất thành lễ”, đó là chưa nói đến vai trò của rượu trong các của đời sống.
2. Do đặc điểm sinh thái tự nhiên, cương vực cư trú cùng những hiểu biết về các loại nguyên liệu có sẵn hay các sản phẩm từ nông nghiệp, cho nên ở mỗi tộc người đã tích lũy cho mình một kỹ thuật chế biến và sử dụng rượu khá riêng biệt, đây chính là một trong những đặc trưng văn hoá tộc người thông qua hình thức ẩm thực. Các tộc người ở Tây Nguyên cho rằng: “Nhím là con vật diệu hiền bởi nó vô tính, nó có nhiều tính năng, dạ dày của nó có tính chất kỳ lạ khiến cho rượu trở nên tuyệt hảo. Cho đến tận ngày nay, mỗi khi bắt được con nhím, họ lấy cái dạ dày nó đem giả với bột gạo làm chất lên men” (Dam Bo, 2003: 144).
3. Loại nước uống đặc biệt hiện diện trong đời sống văn hoá tộc người mang đa chức năng, từ trực tiếp làm giảm những cơn khát vô hình, chuyền tải những ý nguyện của mình đến các thế lực siêu nhiên, đến gián tiếp giải bày những tâm sự cá nhân, cộng đồng trong những tình huống tế nhị, hay quanh co trước một sự việc cụ thể, giúp họ giảm bớt căng thẳng do các hiện tượng thiên tai hay những vấn đề xã hội thường xẩy ra trong cuộc sống, kết nối, mang lại tinh thần đoàn kết tộc người. Sự bất phân ly trong nhiều nghĩa đối với thức uống này trong đời sống tộc người, đã hình thành nên những truyền thuyết gắn với nó một cách đa dạng trong kho tàng văn học truyền miệng của họ.
4. Qua những chuyến điền dã ở tộc người Katu, chúng tôi thấy rằng rượu có vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hoá, nhân tố góp phần tạo nên những sắc thái riêng trong lĩnh vực ẩm thực, giao tiếp, hội hè, tôn giáo, tín ngưỡng… Sự phong phú về rượu làm cho chúng ta hiểu thêm về kho tàng tri thức bản địa, và sự đa dạng về nguyên liệu trong địa bàn cư trú người Katu, đã tạo nên một “văn hoá rượu” riêng của người Katu.
Từ những tài liệu đã đọc, sau những cuộc quan sát tham dự và phỏng vấn hồi cố các “chuyên gia về rượu”, chúng tôi thử đưa ra một số hiểu biết về các loại rượu, cách chế biến và vai trò của nó trong cuộc sống người Katu, nhân tố đã tạo nên sự phong phú và đa dạng trong cuộc sống văn hóa ẩm thực của tộc người này.
2. Rượu trong đời sống người Katu.
2.1. Rượu - đời sống thường nhật: nguyên liệu và kỹ thuật chế biến
Thoạt tiên, nếu lần đầu tiếp xúc với cộng đồng người thiểu số, rất nhiều ý kiến đánh giá chen lẫn chút than phiền về tập tục uống rượu một cách quá độ của họ. Nhưng nếu chịu khó tìm hiểu thật kỹ, chúng ta sẽ dần nhìn thấy sự “huyên áo” của họ về rượu: một thứ thức uống nhiều tác dụng trong đời sống thường nhật và cũng là thức uống của thần linh.
Khó có thể lý giải tập tục uống rượu của con người bắt nguồn từ lúc nào[1][1], nhưng nếu nhìn từ căn nguyên, có lẽ, chúng có mối liên hệ mật thiết, biện chứng, mang tính nhân quả với đời sống kinh tế đao canh hỏa chủng - một sự đầu tư công sức của người lao động không nhiều, chủ yếu phụ thuộc vào tri thức bản địa và một hệ thống phong phú thần linh bủa vây trong đời sống cá nhân lẫn cộng đồng.
Ở khu vực Tây Nguyên, rượu cần: thức uống phổ biến trong nghi lễ được người thiểu số nhắc đến đậm sắc màu truyền thuyết và có sự liên quan mật thiết với những tín niệm tôn giáo sơ khai: đặc biệt một số tộc người pha chế rượu cần bắt nguồn từ những truyền thuyết và mục đích tôn giáo “Con nhím vốn có cái “dạ dày cao nhã”, đã dạy kỹ thuật cao cấp này”: “Làm rượu bằng quả mọng và các thứ giả nát thì chẳng ngon. Làm bằng củ thì sẽ thành thuốc độc. Phải làm rượu cần bằng những viên bột gạo sẽ có được một món rượu ngon… Con nhím đã dạy phải làm bao nhiêu viên bột như vậy cho một ché rượu. Nó bày liều lượng cám; cơm nấu chín và thảo mộc (dùng để làm chất mùi và chất lên men) cần phải trộn với những bánh bột nhỏ; nó dạy cách đặt than hồng ở đáy ghè và một lớp cám trên cùng, trước khi bịt thật kín. Rồi nhím tự rút dạ dày ra, giã nhỏ và trộn với bột, vừa nói “Bao giờ cũng phải làm như thế này: rượu cần chỉ thật ngon khi có dạ dày nhím”(Dam Bo, 2003: 143 - 144).
 Tương tự như các dân tộc ở Tây Nguyên, người Katu cũng có cách riêng để tạo ra các loại rượu, từ nguyên liệu chủ yếu là các loại cây rừng như rượu Tà Vạc, A Dương hay từ sản phẩm nông nghiệp như Bhua thăn, Aviết, chứa v.v… Những loại rượu này có sự khác nhau về nồng độ, chất lượng, mục đích sử dụng, nhưng chúng vẫn góp mặt thường xuyên trong cuộc sống thường nhật cũng như các hội lớn của làng.
* Rượu Tà Vạc
Có thể khẳng định, Tà Vạc [2][2] là loại rượu đặc sản của đồng bào Katu, được chế biến từ một loại cây thuộc họ dừa (cọ?, đoác?), mọc nhiều ở những khe suối trong rừng. Để có rượu uống người Katu chỉ việc lấy nước từ những buồng quả của nó [3][3], tuy nhiên hàm lượng “tinh tửu” không nhiều như các loại khác sản phẩm chưng cất, nhưng lại tạo cho người sử dụng những cảm giác êm ái. Vào những thập niên 30 của thế kỷ trước, Le Pichon đã có những khảo tả và nhận xét khá thú vị về loại đặc sản này: “Những người Katu ở đồn Sáu làm rượu thoáng có vị cồn, hương vị lý thú mà họ rất thích lấy từ một cây cọ cao đến 5m - 6m, đọt mang những buồng trái dài với những bẹ lá rủ xuống thành một cụm dày đặc. Họ chăm sóc cây này rất cẩn thận, và những con đường mòn tương đối tốt là những con đường dẫn đến chỗ trồng cây “bavak”. Cây cọ này rất đặc biệt ở thung lũng A - Pút. Tôi không nghĩ rằng các bộ tộc Mọi khác ở dãy Trường Sơn đều biết đến cây này. Đó là cây “Đoác” đối với người An Nam ở Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, (Arenga sacchariferasp)” (Le Pichon, 1938: 363).
Cho đến tận ngày nay, kỹ thuật khai thác và cách làm rượu Tà Vạc của người Katu vẫn không có gì khác, công việc này thường là do nam giới thực hiện và diễn ra theo mùa. Hàng năm, khi tiếng chim patoong (con chim tu hú) thúc dục người Katu lên rừng trỉa hạt, mặc dù công việc ngày mùa vất vả nhưng họ không bao giờ quên tìm những cây Tà Vạc có nhiều nước và ngon, nhờ vào cách nhận biết về độ tuổi cũng như môi trường sống của cây mà người Katu dễ dàng nhận ra [4][4]. Theo luật tục Katu, nếu cá nhân hay dòng họ nào phát hiện ra nơi có cây Tà Vạc sinh sống, họ thường đánh dấu quyền sở hữu của mình để báo hiệu cho những người đến sau không được khai thác [5][5].
Tuy nhiên, để có được chén Tà Vạc ngon đãi khách, không phải ai cũng có thể làm được. Việc khai thác nước Tà Vạc thường có những quy trình nhất định với nhiều công đoạn để có được mẻ rượu “ngọt”[6][6]. Kinh nghiệm của người đi tìm Tà Vạc chuyên nghiệp cho thấy, độ tuổi của cây và số lần khai thác sẽ cho số lượng nước nhiều hay ít; nếu tìm được cây tốt, một ngày đêm có thể cho gần 20 lít nước.
Trong nguyên liệu chế biến, dược liệu lên men duy nhất là chuônl (vỏ cây chuồn), có tác dụng tạo màu trắng đục, đem lại vị ngọt thanh và hơi chát cho rượu. Hơn nữa, tác dụng của vỏ cây chuồn sẽ hạn chế về các bệnh tiêu hóa cho người sử dụng, đây chính là những kinh nghiệm quý báu giúp người Katu chống lại căn bệnh nguy hiểm này.
* Bhua thăn (rượu sắn)
Bên cạnh loại rượu Tà Vạc, người Katu có một loại rượu không kém phần quan trọng cuộc sống thường nhật, lễ hội… được làm từ những sản phẩm nông nghiệp[7][7] mà người gọi là Bhua thăn[8][8]. Nếu việc làm rượu Tà Vạc chủ yếu do người đàn ông, thì rượu được làm từ cây sắn lại do người phụ nữ đảm nhiệm. Công việc này diễn ra quanh năm, và bận rộn nhất là vào những lúc nông nhàn, kết thúc một vụ mùa bội thu, chuẩn bị thực phẩm cho mùa lễ hội, đâm trâu mừng lúa mới, hoặc trong làng có những sự kiện trọng đại như đám cưới, lễ kết nghĩa, têng ping
Nguyên liệu chính để làm Bhua thăn là củ sắn, với kỹ thuật chế biến tương đối đơn giản: người ta lấy sắn củ bóc sạch vỏ, luộc chín, để nguội, lấy vỏ trấu trộn với men (piêng) rắc đều lên; rồi đổ vào các loại đồ đựng đan bằng tre được lót lá chuối cẩn thận; ủ kín từ 3 đến 5 ngày, khi sắn lên men, có mùi thơm dịu, ngọt, người ta đổ vào các loại ché (xđúc)[9][9] và đậy kín miệng ché. Sau khoảng thời gian 5 - 7 ngày có thể lấy ra uống[10][10], nhưng để càng lâu thì tinh tửu càng cao uống rất ngon.
Cách tạo men rượu (piêng) của người Katu có một vài nguyên liệu giống người người Gia Rai[11][11], men được làm từ nhiều loại cây khác nhau như củ riềng (pari), rễ cây ớt (ria pơrớ), rễ cây abá atốc, rễ cây chơ rơ đhâng ađhi, rễ cây chè hăng v.v… giã nát, trộn lẫn bột gạo rồi dùng tay tạo thành từng viên nhỏ phơi khô. Thông thường, người Katu chế men vào những ngày trời nắng, rảnh việc nương rẫy. Công việc này không phải một phụ nữ Katu nào cũng có thể làm được một cách hoàn hảo, vì lẽ đó, trong xã hội truyền thống, ché rượu ngon nhất bao giờ cũng được dâng lên abhôyang trong những ngày lễ, và những gia đình làm được loại men rượu ngon luôn được người trong làng kính trọng[12][12].
*  AViết (rượu mía) - là loại rượu khá đặc biệt mà chúng ta chỉ bắt gặp khi điền dã trên địa Katu[13][13], được làm từ thân cây mía. Cách làm A Viết cũng tương đối đơn giản: người ta cạo sạch phần vỏ, rồi thái nhỏ thân mía sau, trộn đều với một ít vỏ cây chuồn, đem bỏ vào ché (xđúc) đổ một  lượng nước tuỳ theo ý muốn của người sử dụng; sau 3 ngày có thể lấy ra sử dụng, loại này có hương vị hơi ngọt.
Có một điều khá thú vị về loại rượu này liên quan đến sự ra đời nguồn gốc tên họ của Kabhuh A Viết: Ngày xưa, có một gia đình nọ mở hội ăn mừng. Sau khi đã uống quá nhiều rượu A Viết, họ đã dẫn đến cãi cọ, rồi chém giết lẫn nhau. Để ghi nhớ về sự việc đau lòng này, con cháu họ về sau được dân làng gọi là A Viết (Lê Anh Tuấn, 2007).
* A Dương - là loại rượu được làm từ nước cây mây rừng[14][14]. So với Tà Vạc, việc khai thác loại này vất vả hơn nhiều vì gai, và chúng thường mọc ở ven suối, kết với lại với nhau thành những bụi rậm. Trong cách chọn lựa, người Katu chỉ lấy những cây mây to khoẻ, cắt phần ngọn của chúng rồi đặt ống tre vào đó để nước từ vết cắt chảy ra, trước khi uống người ta bỏ vào một ít vỏ cây chuồn. 
*  Chứa (rượu dứa)
Người Tây Nguyên cho rằng, rượu làm bằng quả mọng và các thứ giả nát thì chẳng ngon, nhưng đối với người Katu thì rượu làm từ quả dứa lại có mùi vị đặc biệt. Điều này đã góp thêm vào sự phong phú và đặc biệt của laọi thức uống có men của người Katu: rượu chứa[15][15]. Người Katu dùng những quả dứa đã chín, bỏ vào một vật dụng đan bằng tre, ép lấy nước, rồi đổ vào xđúc ủ kín cùng với men và vỏ cây chuồn; khi nước lên men cho mùi thơm mới dưa ra sử dụng.
2.2. Rượu trong đời sống văn hoá
Hầu như các tộc người cư trú trên dải Trường Sơn - Tây Nguyên đều có thói quen uống rượu, người Katu cũng không phải là cá biệt. Với họ, có rượu mọi vấn đề sẽ trở nên dễ dàng, kể cả cuộc sống thường ngày cũng như vấn đề tâm linh và ngược lại. Rượu giống như một cơ may, luôn mang lại sự vui vẻ hạnh phúc cho bản làng. Vì vậy, những cuộc rượu mà họ tổ chức đều bắt nguồn từ một nguyên do hay công việc nào đó, bất kỳ lớn hay nhỏ.
Nếu như sự mở đầu một chu trình nông nghiệp Katu sẽ bằng những lễ nhỏ xin đất (Xo Catiếc), thì kết thúc của vụ mùa sẽ là một lễ lớn đó là lễ cơm mới. Tất cả các nghi lễ trong một chu trình này đều phải có rượu, nhưng số lượng mà người ta phải tiêu tốn nhất trong các nghi lễ này chính là lễ cơm mới, đây được hiểu như một sự đáp ơn của con người đối với thần linh đã ban cho họ một vụ mùa bội thu[16][16].
Trong nghi lễ vòng đời của một con người, rượu luôn có mặt ghi dấu cuộc đời, từ việc giúp một sinh linh bé bỏng đến với cộng đồng trong sự hân hoan, đến lễ đặt tên, cưa răng (gọt canêng), cúng mất hồn (Pachô rivai), cưới hỏi (pooi)[17][17]…; và cả khi kết thúc một kiếp người thì rượu vẫn là bạn đồng hành để tiễn biệt họ về với thế giới tổ tiên trong nghi lễ cuối cùng lễ bỏ mả (têng ping )[18][18].
Có thể, những tàn dư của thời nguyên thuỷ in đậm trong tâm thức của người Katu, cho đến hôm nay, một số sản phẩm có được trong việc khai thác, đánh bắt dù ít hay nhiều người ta đều đem chia cho cộng đồng, và khi một gia đình tổ chức uống rượu tại nhà làng hay bất cứ một địa điểm nào đó… điều này có nghĩa rằng hôm đó họ đã kiếm được một món thịt thú rừng, hay khai thác được rượu Tà Vạccó lẽ đây là một trong những nét đặc trưng nhất trong văn hoá ẩm thực Katu.
Sự gắn bó của rượu trong đời sống văn hoá của người Katu đã từng được một học giả người Pháp ghi lại: “Vả chăng những cuộc chè chén là đặc điểm chính trong một lễ hội Katu. Một người Katu sẽ nói “Hôm qua tôi say rượu”, để giải thích rằng hôm qua đã có một lễ hội trong làng của anh ta” (Le Pichon, 1938: 363).
Trong xã hội cổ truyền Katu, những mối cừu hận giữa các làng, cá nhân thường xuyên xẩy ra, hình bóng của thần chết luôn rình rập tất cả mọi người, ngay cả trong những chuyện ăn uống. Vì vậy, mỗi khi uống rượu người Katu thường nhúng một ngón tay trỏ vào chén rượu[19][19] của mình, quay mặt ra phía sau, đưa ngón tay đã nhúng rượu lên trước miệng thổi những giọt rượu đó xuống đất (Brau), miệng cầu chúc cho những gì tốt đẹp đến với mọi người… Động tác này sẽ tránh được những ma thuật làm hại của người khác nhắm vào bản thân mình. Hơn nữa, trong quan niệm Katu, những vị thần tốt luôn mang lại cho họ cuộc sống yên bình, cho nên động tác Brau còn mang thêm ý nghĩa: mời các vị thần cùng chung vui với họ[20][20].
Nếu các tộc người ở Tây Nguyên thường dùng cần cắm trực tiếp vào ché để uống rượu hình thành nên “văn hoá rượu cần”, thì điều này hoàn toàn xa lạ với người Katu. Họ lấy rượu trực tiếp từ trong xđúc ra những chiếc cốc tự tạo hay một số chén bát quý để mời khách. Điều này tạo nên nét riêng biệt trong văn hoá rượu của người Katu[21][21]. Hiện nay, do sự giao lưu văn hoá được mở rộng, họ đã sử dụng cần trong một số trường hợp cho thuận lợi và thú vị lòng khách.
3. Thay lời kết.
Trải qua nhiều thế hệ cùng những biến động của lịch sử, rượu luôn là bạn đồng hành đối với mỗi cá nhân và cộng đồng Katu trong cuộc sống. Từ một loại hình văn hoá ẩm thực trong lễ hội, cũng như trong cuộc sống thường ngày, rượu trở thành một thứ kết nối vô hình giữa con người với các thế lực siêu nhiên, giúp họ có niềm tin và thêm sức mạnh để đối diện với sự khắc nghiệt của núi rừng. Bên cạnh đó, rượu chính là sứ giả của giao tiếp, biểu hiện lên tính nhân văn của họ trước những vị khách quý, trong mối quan hệ xui gia, những cuộc kết nghĩa, hoà giải, hay những cuộc viếng thăm của anh em họ hàng ở xa và cả những người lạ mặt đến thăm làng. 
Ngày nay, trong sự phát triển chung của đất nước, làng bản Katu thay đổi từng ngày. Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nương rẫy truyền thống của người Katu bị thu hẹp, chuyển sang trồng một số cây công nghiệp có tiềm năng kinh tế như tràm, cao su v.v… Điều này làm giảm nguồn đất để trồng và khai thác một số cây cho nguyên liệu làm rượu. Bên cạnh đó, sự đa dạng của nền kinh tế hàng hoá vùng đồng bằng, dẫn đến, các mặt hàng công nghiệp đã xâm nhập sâu vào cuộc sống của người dân miền núi, trong đó rượu cồn, rượu nhà máy là một mặt hàng dễ tiêu thụ nhất ở vùng này, bởi sự tiện lợi và đa mùi vị của chúng. Từ những lẽ đó, người dân miền núi nói chung và người Katu nói riêng không còn bận tâm vào công việc làm rượu. Điều này, nhìn trên góc độ văn hoá, thì “văn hoá rượu cồn” dần thay thế văn hoá “rượu thảo mộc”, nghĩa là đang có sự xâm lấn của “văn hoá rượu chai, can” đến “văn hoá rượu ghè, bầu, ống tre”, theo đó, làm mất đi vai trò của những chiếc xđúc cổ quý báu vốn trước đây nó đã chứng kiến những hình ảnh đẹp đẽ trong hội làng, đám cưới hay những cuộc giải hoà, kết nghĩa… của chủ nhân mình.
Lớp trẻ Katu ngày nay không mấy thích thú uống truyền thống, đáng báo động hơn khi, thay vì đi khai thác nước Tà Vạc, Adương mang về chia sẻ cùng mọi người, họ lại khai thác các lâm sản để đổi lấy rượu, bia. Những hình ảnh này đã làm thay đổi một xã hội truyền thống Katu vốn hài hoà và rất nghiêm minh trong vấn đề xử phạt theo luật tục truyền thống[22][22]. Nếu điều quan tâm nhất của cán bộ y tế là rượu cồn rất có hại đối với sức khoẻ con người, thì đối với những người làm công tác bảo tồn văn hoá chính là “gia tài của họ sẽ tan hết thành rượu chỉ trong một đêm” (Dam Bo, 2003: 23).
                                                                                                       T.Đ.S
Tài Liệu Tham Khảo
1.      Anne De Hautecloque - Howe [Nguyên Ngọc, Phùng Ngọc Châu dịch] (2004), Người Ê Đê một xã hội mẫu quyền, Hà Nội: Nxb. Văn hoá Dân tộc.
2.      Bùi Đình (1963), Đường lên xứ Thượng, Tủ sách thanh niên cộng hoà, Bộ công dân vụ xuất bản.
3.      Dambo (Jacques Dournes) [Nguyên Ngọc dịch] (2002), Miền đất huyền ảo (Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương), Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn.
4.      Đông A Sáng [biên dịch] (2005), Rượu & Văn hoá Trung Hoa, Hà Nội: Nxb. Văn hoá Thông tin.
5.      Georges Condominas (2003), Chúng tôi ăn rừng - Thần Gôo, Hà Nội: Nxb. Thế Giới - Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
6.      Hoàng Hương Việt (2002), “Rượu Tàvạt”, trong Văn hoá Quảng Nam, số 31, trang 46 - 47.
7.      Le Pichon (1938), “Les chasseurs de sang”, trong B.A.V.H, No. 4.
8.      Lê Anh Tuấn (2007), ‘‘Tìm hiểu dòng họ Katu qua những câu chuyện về nguồn gốc và tín ngưỡng’’, trong Thông tin Khoa học, Huế: Phân viện nghiên cứu Văn hoá thông tin tại Huế, số tháng 3, trang 80 - 95.
9.    Lê Bá Thảo (1977), Thiên nhiên Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Khoa học và Kỹ thuật.
10.           M.O.Kosven [Lại Cao Nguyên dịch] (2005), Sơ yếu lịch sử văn hoá nguyên thuỷ [tái bản lần thứ nhất], Hà Nội: Nxb. Khoa học xã hội.
11. Nguyễn Hữu Thông (2003), “Men nồng Tà vạt trong hương rừng Cơtu”, trong T/c Văn hoá Quảng Nam, số 38, trang 26, 28.
12. Nguyễn Hữu Thông [Ch.b] (2004), Katu kẻ sống đầu ngọn nước, Huế: Nxb. Thuận Hoá.
13. Nguyễn Hữu Thông [Ch.b] (2005), Văn hoá làng miền núi Trung bộ Việt Nam: Những giá trị truyền thống và những bước chuyển lịch sử, Huế: Nxb. Thuận Hoá.
14. Tạ Đức (2002), Tìm hiểu văn hoá Katu, Huế: Nxb. Thuận Hoá.
15. Tôn Nữ Khánh Trang (2002), “Chuyện ăn uống của người Katu - dẫn liệu từ một ngôi làng”, trong Thông tin Khoa học, Huế: Phân viện nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại Huế, số tháng 9.


[1][1] Theo M.O.Kosven thì: Từ lâu người ta đã biết làm đồ kích thích và đồ say, hoặc làm đồ uống hoặc nhấm nháp trong miệng… ở người Pô - li - nê - di - a và một bộ phận của người Anh - điêng dùng rượu mạnh là ka - va chế bằng những cây thuộc loài hồ tiêu, … Người nguyên thuỷ cũng có chè, rượu bia, rượu chua (kvas), rượu sữa ngựa (koumys), mật ong, rượu chà là, tất nhiên có cả rượu nho nữa. (M.O.Kosven, 2005: 161).
[2][2] Truyền thuyết Katu kể rằng: “Ngày xưa ở một triền rẫy nọ có một cây Tà Vạt toả bóng mát, được dân làng dọn sạch cỏ rác, vun gốc, chăm bón như cây trong vườn, dùng làm nơi nghỉ nghơi, trú nắng trong lúc làm rẫy oi bức. Mùa rẫy năm đó, khi cây lúa, cây bắp sắp đến kỳ thu hoạch thì những bầy khỉ kéo đến, chuyển từ các lùm cây xuống phá hoại hoa màu. Để xua đuổi bầy khỉ, bà con đàn phải đốn cây ấy đi. Khi chặt những tàu lá, cọng buồng Tà vạt bị dập họ thấy những giọt nước trong veo chảy ra, có mùi thơm kỳ lạ. hấm thử, nước cọ vị ngọt dễ chịu, bà con lấy nước để uống, cảm thấy mát dịu” (Hoàng Hương Việt, 2002: 46).
[3][3] Rất nhiều tộc người trên dãy Trường Sơn đều dùng nước cây đoác để làm rượu, nhưng cách làm và sử dụng đều khác nhau. Ví dụ: các tộc người ở miền núi Quảng Bình cũng khai thác loại rượu này nhưng không phổ biến, họ gọi là Pà đô cá pác, cách khai thác cũng gần giống với một số tộc người cư trú trên dãy Trường Sơn, nhưng trước đặt ống tre lấy nước, người ta thường cho vào đó một số vật liệu lên men như: cà chăm (tấu), vỏ cây chàng hang, rễ tiêu (ớt), rễ cây cau… sau đó lấy một hòn đá ở lèn cho vào ống để làm cho nước rượu trong…
[4][4] Người ta thường chọn những cây có buồng và quả to, không sâu bệnh.
[5][5] Người Katu có nhiều kiểu làm ám hiệu để biểu hiện quyền sở hữu của mình. Ví dụ: người ta dùng rựa chặt một tàu lá Tà Vạc làm chỉ vào khu vực mình đã chọn, hoặc đánh dấu X vào tất cả các cây mà  họ dự định khai thác, hoặc đùng một cành cây rừng cắm xuống một một vị trí nào gần đó, ở phía trên đầu cây người ta đặt một cành nhỏ chỉ về phía cây mình đã chọn…
[6][6] Xem thêm: Hoàng Hương Việt (2002), “Rượu Tàvạt”, trong Văn hoá Quảng Nam, số 31: 46 - 47; Nguyễn Hữu Thông (2003), “Men nồng Tàvạt trong hương rừng Cơtu”, trong Văn hóa Quảng Nam, số 38: 26, 28, Tạ Đức (2002), Tìm hiểu văn hoá Katu, Huế: Nxb. Thuận Hoá.
[7][7] Khác với người Katu, các tộc người thiểu số ở phía Bắc, nguyên liệu làm rượu bao giờ cũng là ngô, nếp, gạo… người ta ít khi dùng sắn làm rượu, người Tây Nguyên cũng vậy, gạo nếp luôn là một trong những nguyên liệu làm rượu ngon nhất.
[8][8] Trong ngôn ngữ Katu từ bhua được hiểu chung là rượu, nhưng hiểu chính xác thì đây là loại rượu được làm từ củ sắn, còn các tên gọi Alắc, xiêu… có nghĩa là rượu trắng của người Kinh chưng cất, hay các thương lái người ở vùng đồng bằng mang lên. Đối với các loại Tàvạt, adương, chứa, Aviết… người ta chỉ gọi tên của chúng mà thôi. Ví dụ: Nếu một người Katu mời ai đó uống Tàvạt, adương, chứa, aviết… nhưng thực chất đó chính là rượu được làm từ các loại cây này.
[9][9] Đồ đựng rượu ở người Katu chủ yếu là các loại ché cổ, phần nhiều có nguồn gốc từ đồng bằng, họ có được các vật dụng này thông qua các con đường trao đổi hàng hoá với các thương lái người Kinh, vì vậy trong quan niệm của truyền thống của người Katu, vật dụng này là tài sản vô giá có thể đổi/sánh ngang với người phụ nữ xinh đẹp.
[10][10] Cũng giống như các loại rượu của người Tây Nguyên, nước rượu đầu tiên bao giờ cũng ngon nhất, khi uống cạn rượu bên trong, người ta lại đổ thêm nước, khi tinh tửu không còn họ mới bỏ đi.
[11][11] Men rượu của người Giarai được làm từ gạo, ớt, riềng củ, cây ram, rễ cây pơ riăngví, nhựa cây mã tiền (phul kran)…giã nát, vắt thành từng viên nhỏ phơi kho hoặc bỏ lên giàn bếp rồi dùng dần.
[12][12] Ở người Tây Nguyên: “Hai người đàn bà đã làm ra ché rượu cần đầu tiên dưới sự chứng giám của Thần nhím, từ đó công việc này luôn là của đàn bà. Khi mở ché rượu cần, chén rượu đầu tiên bao giờ cũng dâng các Thần để tỏ lòng biết ơn họ đã cho người món ăn tuyệt hảo này” (Dam Bo, 2003: 143 - 144).
Khác với người Katu, Jarai, trong quan niệm người Hrê, gia đình nào làm men rượu là mạt nghệ, giã men trong nhà sẽ làm cho gia đình luẩn quẩn, nhà nào sa sút, cô quả, không nơi nương tựa mới chịu làm men để sinh sống (Bùi Đình, 1963: 31).
[13][13] Trong tiếng Katu, cây mía được họ gọi với cái tên rất phổ biến là Atao, nhưng loại này được đem làm rượu thì họ lại gọi là Aviết. 
[14][14] Trong các loại mây rừng thì chỉ có loại Adương cho nhiều nước và uống rất ngon, nên người ta gọi chúng theo tên của cây.
[15][15] Trước đây rượu dứa rất quý, bởi lượng nước trong quả rất ít, nếu làm nhiều thì không có đủ nguyên liệu
[16][16] Số lượng rượu trong lễ cơm mới của người Katu sẽ tuỳ thuộc vào sản phẩm của vụ mùa, trước đây, mỗi khi tiến hành nghi lễ các hộ gia đình/các bếp thường đóng góp ít nhất là 1 ché rượu.
[17][17] Luật tục Katu quy định: trong lễ vật hôn nhân mà nhà trai mang sang cho nhà gái không bao giờ có rượu đi kèm. Ngược lại, khi nhà gái nhận lễ cảm ơn dân làng (tắp blo) do nhà trai tổ chức, thì nhà gái sẽ đáp lễ tại nhà trai bằng lễ gùi rượu (Vui bhua).
[18][18] Trong cuộc đời của một con người thì nghi lễ cuối cùng mà người sống dành cho người chết đó là lễ bỏ mả đây được coi là một trong những nghi lễ lớn nhất của người Katu. Một số lể bỏ mả của người Katu ở Thượng Long, Thượng Quảng mà chúng tôi có dịp may để tham dự, trong lễ này họ phải sử dụng gần 500 kg sắn làm rượu, bên cạnh đó các loại rượu do người Kinh chưng cất cũng lên tới 30 - 40 lít… Trong nghi lễ này người Katu dùng rượu, máu của vật hiến sinh cùng một số thức ăn bỏ vào một ống tre, đặt ra ngoài đường để ngăn cản các hồn ma không nơi nương tựa vào khu vực thiêng mà họ đang tổ chức.
Ở vùng Êđê, trong một đám ma bao giờ họ cũng lấy rượu làm nước thiêng, có khi còn trộn với máu của vật hiến sinh, người ta dùng bông hoặc một cành lá nhúng vào rượu cần rồi vẩy lên người chết, quan tài, chủ lễ… (Dam Bo, 2003: 380).
[19][19] Trong xã hội cổ truyền các vật dụng dùng để đựng nước hay uống đối với họ quả là một vấn đề khó khăn, hơn nữa trong quan niệm Katu, lúc uống người ta kiêng làm đổ các thức ăn hay uống xuống sàn nhà, cho nên họ thường dùng những ống lồ ô, hay nứa để làm đồ uống rượu, một ở phần dưới đáy cốc người ta không cắt ngang, để lại một phần và khi đặt chén xuống mặt sàn, phần này có tác dụng giữ ống tre khỏ bị ngã.
[20][20] Trong các chuyến điền dã, chúng tôi có nhiều cơ hội uống rượu với tộc người Tà Ôi, Vân Kiều, Jẻ Triêng … nhưng ở họ, những phép thuật không thấy.
[21][21] Ở người Hrê, các nhà giàu thường làm một cột rượu nằm ngay giữa nhà, chạm trổ rất công phu, khi uống người chủ cầm cần (triêng) mời khách, người ta rất kỵ cắm cần ngược. Để tránh bị đầu độc, người Hrê không bao giờ uống ngay hớp rượu đầu tiên mà phải nhổ ra, dần dần trở thành một tục lệ trong đời sống của họ. Nhưng đối với tộc nguời Kơho, khi uống rượu chủ nhà thường dùng ché cá nhân (dung tích gần 1 lít) lấy rượu từ trong ché ra, uống trước một ngụm nhỏ rồi mời khách uống. Xem thêm: Bùi Đình (1963) Đường lên xứ Thượng, Tủ sách thanh niên cộng hoà, Bộ công dân vụ xuất bản.
Ở người Ê đê, tầm quan trọng của lễ hiến sinh thường được tính bằng rượu, các ché rượu được bài trí giống nhau trong phòng chung, các ché được cột vào những chiếc cọc theo một đường song song. Trước khi uống rượu người ta thường nếm rượu, bằng cách lấy một ít rượu từ các ché vào một chiếc bát đồng. Tiếp theo chủ lễ mời người hưởng phúc đến bên ché rượu và đeo vào cổ tay anh ta một chiếc vòng bằng đồng, rồi đọc một lời khấn ngắn trong khi anh ta uống rượu, tiếp theo là thứ tự của mọi người vào uống (Anne De Hautecloque - Howe, 2004)
[22][22] Trong xã hội cổ truyền Katu, những người say rượu không có lý do sẽ bị phạt nặng, điều này cũng tương tự giống người nguyên thuỷ được M.O.Kosven mô tả “Người nguyên thuỷ không quen uống rượu say be bét, người say rượu luôn bị mọi người chê cười, trong xã hội nguyên thuỷ, đó là điều ngăn cấm có hiệu lực” (M.O.Kosven, 2005: 161).

0 nhận xét:

Thứ Ba, 19 tháng 8, 2014

Nói lý, hát lý trong xã hội Katu*

*Title chuẩn: Hình thức Prơ Bhmã và vai trò của A Lý trong xã hội Katu truyền thống


0 nhận xét:

Thứ Hai, 11 tháng 8, 2014

Truyện cổ Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế*

*Title chuẩn: Tiếp cận truyện cổ của người Cơtu ở Thừa thiên _ Huế
Trần Nguyễn Khánh Phong , Tạp chí Văn hoá  và Du lịch, số 11, tháng 5 năm 2013

Trong kho tàng văn hóa dân gian của người Cơtu, truyện cổ tích được nhắc đến nhiều, và từ trước đến nay cũng đã có nhiều công trình sưu tầm, biên soạn, giới thiệu và nghiên cứu về truyện cổ Cơtu ở Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng. Điều này chứng tỏ được rằng, người Cơtu có một kho tàng phong phú về số lượng văn bản lẫn giá trị nghệ thuật trong từng câu chuyện kể.

FOLKTALES OF THE COTU ETHNIC GROUP IN THUA THIEN HUE

Abstract

            In the folklore storage of the Cotu ethnic group, folktales are much mentioned by researchers. Many projects of collecting, selecting, introducing, and studying Cotu folktales over Vietnam in general and in Thua Thien Hue in particular have been carrying out. This fact proves that the Cotu people have a rich storage of folktales that are aesthetically valuable.

 ***
Ở địa bàn Thừa Thiên Huế, người Cơtu chủ yếu tập trung ở huyện Nam Đông và số ít hơn ở các xã Hương Lâm, Hương Nguyên, Hồng Hạ, Hồng Thượng và thị trấn A Lưới thuộc huyện A Lưới. Cũng giống các dân tộc thiểu số khác trên dãy Trường Sơn, trước 1975, người Cơtu sống với nghề nương rẫy, trồng lúa khô. Ngoài lúa, đồng bào còn xen canh các loại bắp, kê, đậu,... Một số loại cây như dứa, mít, chuối cũng được trồng ở bìa rẫy hoặc gần nhà. Lợn, gà được nuôi theo lối thả rông. Săn bắn, hái lượm và đánh cá là những công việc được bà con làm khi rỗi vụ. Nghề đan lát ở đây khá nổi tiếng: các đồ gia dụng như mâm, rá đựng cơm, giỏ đựng dao rựa, ống đũa, hộp đựng xôi, các loại gùi, các loại nong nia để sàng sẩy gạo,...được làm bằng mây tre rất tinh xảo, và người phụ nữ Cơtu còn biết dệt vải dzèng truyền thống để phát triển kinh tế gia đình.

            Làng của người Cơtu có chừng 20 đến 40 nóc nhà, nhà này cách nhà kia độ 5 - 7m, được xếp theo hình tròn, hình bầu dục hay đa giác, với chu vi chừng 1km. Mỗi làng có công trình công cộng như nhà làng (Gươl), máng nước, nghĩa địa và hàng rào làng. Bên cạnh nhà ở, đồng bào còn có nhà kho để chứa lương thực, nhà chòi để bảo vệ nương rẫy. Chúng nằm ở vị trí xa làng độ 200 - 1000m.
            Đứng đầu làng có chủ làng (Tacôh bươl, sasai vil), là một già làng có đầy đủ uy tín, am hiểu phong tục, tập quán, có khả năng suy xét để xử đúng trong các vụ kiện tụng, có tài ăn nói để ngoại giao, được dân làng bầu lên. Trong làng có nhiều dòng họ (Cabu), mỗi dòng họ có tập quán kiêng cữ riêng liên quan đến dòng họ mình. Như dòng họ nhận con vật nào làm vật tổ thì không gây hại hay ăn thịt con vật đó: dòng họ Acho (con chó) kiêng ăn thịt chó; dòng họ N’drok (con bò) kiêng ăn thịt bò; dòng họ Avô (con vượn) kiêng ăn thịt vượn;... Trai gái cùng dòng họ cho dù đã qua nhiều đời vẫn không được lấy nhau, trong khi con trai cô được phép lấy con gái cậu. 
            Người Cơtu trước đây có tục nam nữ đến tuổi trưởng thành đều phải cưa các răng cửa đến sát lợi. Cưa răng xong, xã hội mới công nhận sự trưởng thành, mới có thể tính chuyện hôn nhân, và tham dự các sinh hoạt của cộng đồng với tư cách là một thành viên chính thức.
            Người Cơtu có nhiều hình thức hôn nhân: Hôn nhân gọi mở cửa (Pơplóng) thường gặp nhất, khi đôi trai gái đã tìm hiểu nhau về báo cho gia đình mình, nếu nhà gái chấp nhận thì nhà trai tìm người mối (brla), để thoả thuận về đồ sính lễ và các nghi thức liên quan; Hôn nhân xách gùi (Hơdon tileék), khi chàng trai nhà nghèo hay mồ côi không đủ đồ sính lễ, được nhà gái cho ở chung rồi gả con cho; Hôn nhân kí của (Jhơdâp văn), khi người con trai nhà nghèo không đủ đồ sính lễ phải vay mượn của ở nhà giàu hay nhờ họ cưới vợ cho mình, với điều kiện là khi sinh ra con gái phải trao cho họ để họ có thêm lao động và khi lấy chồng thì đòi lại của cải đã bỏ ra; Cướp vợ (Tông kadeail) là hình thức hôn nhân của nhà giàu, con trai nhà giàu tổ chức bắt cóc cô gái mà mình thích làm vợ rồi báo cho nhà gái biết, nếu nhà gái đồng ý, họ sẽ đòi nhà trai nộp sính lễ gấp 3, 4 hôn nhân bình thường.
            Trong kho tàng văn hóa dân gian của người Cơtu, truyện cổ tích được nhắc đến nhiều, và từ trước đến nay cũng đã có một số công trình sưu tầm, biên soạn, giới thiệu và nghiên cứu về truyện cổ Cơtu ở Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng. Xin được nêu ra đây một vài công trình tiêu biểu mà chúng tôi có dịp tiếp cận, xếp theo trình tự thời gian:
            - Nguyễn Văn Bổn (Chủ biên): Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng. Tập 2. Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng, Đà Nẵng, 1985.
            - Nguyễn Tri Hùng: Truyện cổ Cơtu. NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, 1992.
            - Nghiêm Đa Văn: Truyện cổ tích Việt Nam. NXB Phụ Nữ, Hà Nội, 2000.
            - Nguyễn Hữu Chúc, Ninh Viết Giao, Phùng Sĩ Hòa, Trần Hoàng, Trần Trọng Tân, Mai Văn Tấn: Truyện cổ các dân tộc miền núi Bắc miền Trung. NXB Thuận Hóa, NXB Nghệ An, NXB Thanh Hóa, 2001.
            - Trần Nguyễn Khánh Phong: Chàng Phuật Nà (Truyện cổ Tà ôi, Cơtu). NXB Thuận Hóa, Huế, 2006.
            - Trần Nguyễn Khánh Phong: Truyện cổ các dân tộc thiểu số A Lưới. Giải Khuyến khích Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, 2011. Bản thảo chưa xuất bản.
            - Kê Sửu (Chủ biên), Trần Nguyễn Khánh Phong, Triều Nguyên: Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Thừa Thiên Huế, 2 tập. Bản thảo được Giải Nhì B, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, 2011.
            - Trần Nguyễn Khánh Phong: Truyện cổ dân tộc Cơtu. Bản thảo, 2012.
Và ngoài ra, còn có hàng chục truyện cổ khác của người Cơtu được đăng, in rải rác trong các tuyển tập, tạp chí, báo của trung ương và địa phương mà chúng tôi chưa có điều kiện tham khảo. Điều này chứng tỏ được rằng, người Cơtu có một kho tàng phong phú về số lượng văn bản lẫn giá trị nghệ thuật trong từng câu chuyện kể.
So với người Cơtu ở Quảng Nam thì người Cơtu ở Thừa Thiên Huế vẫn có số lượng truyện cổ tích khá nhiều, không trùng lặp, được các nhà sưu tầm, biên soạn và công bố trong thời gian gần đây đã phần nào nói lên được việc phát huy, bảo tồn các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên Huế.
Tiếp cận truyện cổ của người Cơtu ở Thừa Thiên Huế chúng tôi thấy  nội dung các truyện được chia làm ba loại: Truyện cổ tích thần kì gồm các truyện: Tầm Mò Zòi, Koài Tù Roàih tìm nước cho làng, Tơ Rứt Kalang Batưng, Nàng Kăn Tưi, Nàng Palo và chàng Kăn Tưi, Sut Kăn Mo, Chàng Arăng giết vợ, Tít Mang - Tang Lơ, Partur Tơơm...; truyện cổ tích sinh hoạt: Ông Vỗ Tôn, Chàng Kăn Tưi nhanh trí, Kăn Kayhơâu, Tơ Rứt làm vua, Tơ Rứt tậu trâu, Chàng lười, Kinhiar, Arưi Klúng.... và truyện cổ tích loài vật: Voóq Arien, Thỏ và bà, Sự tích cây đao...  
Trong truyện cổ Cơtu nổi lên nhân vật người mồ côi, hay gặp là các chàng mồ côi. Các chàng mồ côi thường nghèo khổ, vì vậy mà khó thuyết phục được bố mẹ của những cô gái khi muốn cưới các nàng. Bù vào đó, người mồ côi thường tốt bụng và có quyết tâm, nỗ lực lớn hơn người khác; chưa nói các chàng thường được thần linh trợ giúp. Đó là chìa khoá thành công của họ. Xin nêu ra đây một vài nhân vật tiêu biểu như Tơ Rứt, Kăn Tưi, Sut Kăn Mo, Tít Mang - Tang Lơ, Partur Tơơm...hoặc các vị thần.
            1. Hệ thống truyện cổ thần kỳ đã nhắc đến nhân vật Tầm Mò Zòi trong truyện Tầm Mò Zòi được xem là một vị thần khổng lồ ẩn thân trong một tảng đá lớn. Ông Zòi đã cứu giúp dân làng sống cạnh tảng đá thoát cảnh bị cướp bóc. Ông cũng trừng trị những kẻ ác gây hại đến người khác. Sức tài của ông vượt quá mức của những kẻ trần tục, nên ông chẳng cần phải ra tay với ai, mà chỉ dùng đến “hắt xì hơi” là đã khiến đối phương bị đẩy văng xa: “Tầm Mò Zòi chẳng nói năng gì ông hất chiếc mũi lên trời rồi cúi nhìn trưởng làng ăn cướp, hắt xì hơi một cái, vị trưởng làng ăn cướp bay bổng lên không trung rồi rơi một cái thật mạnh xuống ngay trước sân nhà Gươl của làng mình gãy mất xương sườn”; hay “Tầm Mò Zòi hất chiếc mũi lên trên trời rồi hắt xì hơi một cái, lão chủ đất đã bay tít về một phía làng Krông. Tầm Mò Zòi lại hắt xì hơi thêm một cái nữa thì mọi vật quanh đó bay theo lão, đưa lão về cõi chết”. Có thể nói Tầm Mò Zòi là truyện kể về những người anh hùng đứng ra bảo vệ làng, được làng kính trọng, cúng bái. Truyện này có phần gần với thần thoại, do Tầm Mò Zòi thuộc thế giới các thiên thần phân biệt với nhân thần.
            Đối với nhân vật Koài Tù Roáih biết làm ra những công cụ sản xuất bằng đá như cuốc, rìu, biết cách giữ lửa để nấu nướng, biết làm cung tên để tự vệ và bắn thú lấy thịt, biết đan lát các loại dụng cụ như kađư, gùi, cà loòm, cà ria để phơi lúa và cất lúa. Koài Tù Roáih cùng một chàng trai làng Canôn([1]) đi tìm nước sạch cho làng. Họ gặp thần Rừng, được thần đồng ý cho nước và bảo cho biết một trận lụt lớn sắp đến. Chàng trai mời Koài Tù Roáih cùng về làng Canôn.
Dân làng được tin, lo chuẩn bị đối phó với lụt. Nhờ đó, trận lụt đã không gây thiệt hại đáng kể cho dân làng. Còn nước thì tha hồ. Từ đó, cây cỏ, động vật sinh sôi nảy nở; con người cũng có cái ăn cái mặc. Thấy vậy, Koài Tù Roáih xin ở lại hẳn luôn và được chủ làng đồng ý. Và dưới đây là đoạn kết của Koài Tù Roáih tìm nước cho làng: “Về sau nhờ biết làm ăn, Koài Tù Roáih còn bày cho dân làng làm được nhiều thứ nên chủ đất giàu có trong làng gả con gái cho. Koài Tù Roáih từ đó được vợ đẹp, con ngoan và sống một cuộc sống sung túc”.
Truyện Tơ Rứt Kalang Batưng kể việc Tơ Rứt mồ côi chém Diều hâu cứu được Kalang Batưng đem về nhà, và vượt qua thử thách của ông Pơnhe, bố nàng Kalang Batưng, là “leo qua mười một nấc thang đều gãy, vít gãy cần rượu, bắt được con lợn mà chỉ dùng một tay”, nhưng vẫn không được chấp nhận. Tơ Rứt phải vượt qua thử thách phi lí, đúng hơn là một sự bắt bí khác, là phải làm xong cái nhà dưới vực sâu trong vòng một ngày. Thần Sông đã hiện lên giúp đỡ Tơ Rứt, căn nhà được dựng lên bởi các loài thuỷ giới: cá chình làm cột, cá bơn lợp mái, cá lát xếp tường, ba ba làm bếp,... Ông Pơnhe thấy nhà đẹp và sang thì thích thú lắm, hò hát và nhảy múa ầm ào. Ông sai Kalang Batưng nhóm bếp nướng thịt. Khi lửa bốc lên cao, ba ba bị nóng quá vùng chạy, cá chình, cá lát,...không chịu nổi hơi nóng, phóng quáng quàng. Bọn cá lao vào người ông Pơnhe, khiến ông ta ngã lăn ra chết.
Hàng loạt truyện như Nàng Palo và chàng Kăn Tưi, Nàng Kăn Tưi, Sut Kăn Mo, Partur Tơơm... đều mang yếu tố thần kì, người đội lốt thú, hoặc các bộ phận của con thú như chiếc ngà voi, hoặc con của vị thần nào đó....Ví như; chàng Kăn Tưi mồ côi bị voi thần phá rẫy, đã quyết tâm bắt được voi, khiến voi phải đổi một chiếc ngà để được bình yên. Một cô gái đẹp từ chiếc ngà voi hiện ra và sau đó cùng chàng Kăn Tưi kết làm vợ chồng.
Hoặc truyện kể về một nàng Kăn Tưi mồ côi bị chàng trai là con của Yang Arơbang[2] đến phá rẫy. Nàng bắt được chàng ta và tha cho chàng. Con trai của Yang Arơbang biến thành chàng A Bao nhà nghèo mồ côi để có thể kết hôn với Kăn Tưi. Hai người sống hạnh phúc suốt đời.
Cô gái Sut Kăn Mo xinh đẹp lấy một chàng trai, ban ngày phải trong lốt trăn, làm chồng. Chàng trăn tốt bụng, chẳng may mắc tội, bị phạt trong lốt trăn một thời gian mà thôi. Sut Kăn Mo sống trong rừng sâu với chàng trăn, họ có hai con. Một hôm, mẹ của Sut Kăn Mo tìm đến nhà hai người đưa nàng về làng. Ít năm sau, mẹ mất, Sut Kăn Mo tìm lại chồng con. Bấy giờ, chàng trăn hết nạn trở lại thành người, là chàng Tu Lăn đẹp trai, khoẻ mạnh. Hai người có cuộc sống thật hạnh phúc.
Chàng trai tuấn tú tên Partur Tơơm, yêu nàng Kabíh Katang Tanang Kaheea xinh đẹp. Chàng là con của người trời xuống trần gian sinh sống và phát triển giống nòi, nên không thể đụng đến thân hình chàng (thân chàng đâm không thủng, bắn không vào, chặt không đứt), trừ khi dùng lõi cành thông, vật bảo hộ và là họ tộc của chàng. Điều này được giấu kín vì liên quan đến tính mệnh Partur Tơơm. Nhưng một hôm chàng đã tiết lộ cho Kabíh Katang biết và bị con rệp dưới giường chàng nằm nghe thấy. Con rệp đã báo cho ân nhân của nó là con ma rà, kẻ đang đối địch với chàng. Con ma rà đã dùng lõi cành thông đánh chết Partur Tơơm.   
Truyện Tít Mang - Tang Lơ kể về hai anh em Tít Mang và Tang Lơ hết lòng thương yêu nhau. Vì một sơ suất của Tít Mang làm Tang Lơ chết khiến Tít Mang ân hận đến không muốn cưới vợ. Đây là một mẩu truyện thương tâm về tình anh em.  
2. Hệ thống truyện cổ tích sinh hoạt thì lại thể hiện những vấn đề trong cuộc sống làng bản, quan hệ họ hàng, cộng đồng, gia tộc....mỗi truyện có một sắc thái riêng nhằm thể hiện những ước muốn, tâm tư tình cảm của con người với nhau. Họ biết lấy thiện để thắng ác, biết ở hiền gặp lành...Truyện Ông Vỗ Tôn kể về người đàn ông cùng tên tốt bụng, được một bà lão tặng cho con gà mái choai. Từ gà ông có lợn, từ lợn có bò, từ bò có trâu, từ trâu có bạc thỏi, bạc nén, mã não…Từ bạc thỏi, bạc nén, mã não, ông có voi…Nhưng quan trọng hơn, ông có được cuộc sống giàu sang hạnh phúc nhờ cần cù công việc chăn nuôi và sống tốt với mọi người. Phải chăng, chăm làm và lương thiện là bài học lớn, bài học vỡ lòng mà việc giáo dục con người không thể không chú ý?
Truyện Chàng Kăn Tưi nhanh trí thì lại kể về một chàng Kăn Tưi mồ côi, sống với bà nội, lớn lên, chàng để ý đến một cô gái giàu có trong làng. Bố cô gái là một người tham lam, độc ác. Để chứng tỏ với mọi người mình là người thông thái và công tâm, ông nhà giàu này ra câu đố cho các trai làng lăm le muốn cưới con gái mình: “Cái đen được gọi là than, cái trắng được gọi là chén, cái dài là mây trời có phải không?”. Không chàng trai nào trả lời đúng, trừ Kăn Tưi (được bà nội bày), ấy là “Cái đen là đêm, cái trắng là mặt trời sáng của ban ngày, cái dài là đường đi ngang dọc, đi đâu cũng có đường để đi”. Ông ta bội ước, không chịu gả con gái cho Kăn Tưi. Nhân việc có con voi chết bị lũ chim moi thịt ăn rỗng ruột, chỉ còn lớp da dày, Kăn Tưi tìm cách bít chỗ hậu môn voi, nơi lũ chim chui vào, rồi đánh bên ngoài khiến lũ chim hốt hoảng bay lên, nâng cả con voi. Kăn Tưi cưỡi voi bay đến nhà lão nhà giàu. Lão ta thích chí bằng lòng gả con gái cho Kăn Tưi, và đổi hết gia tài để lấy con voi bay. Kăn Tưi đồng ý, dặn lúc bay đến suối nước nóng thì tháo cái sọt bít ở dưới đuôi voi ra cho voi xuống uống nước. Lão nhà giàu độc ác cưỡi voi bay, thích chí vô cùng. Đến chỗ suối nước nóng, lão nhà giàu mở cái sọt ở dưới đuôi voi ra như Kăn Tưi dặn. Lũ chim thấy có lối thoát, vội phóng cả ra ngoài. Voi rơi xuống đất, hất lão nhà giàu vào tảng đá to, chết tươi. Kăn Tưi từ đó được hưởng giàu sang và hạnh phúc. 
Truyện Kăn Kayhơâu khá độc đáo, kể về người đàn bà có tên là Kăn Kayhơâu; bà ta có tám cô con gái xinh đẹp, khiến các chàng trai khao khát. Nguyên hai làng Anong và Chơrlang có mối thâm thù, nên khi các chàng trai con của ông Koónh Lek và Koónh Ot làng Anong cũng như các chàng trai con của Koónh Tơâm và Koónh Vêr làng Chơrlang đều có ý cưới các cô về làm vợ, họ quyết một trận sống mái để giành vợ. Đây là trận đấu lao, bên nào mạnh hơn, nhanh hơn, đâm trúng đối phương nhiều nhát hơn thì chiến thắng và chiếm được tám cô gái xinh đẹp, bên thua, nếu bị thương không chết thì phải làm thân trâu ngựa phục dịch kẻ chiến thắng suốt đời, suốt kiếp. Nhận ra bản chất phi nhân của cuộc đấu vì các con gái của mình, bà Kăn Kayhơâu đi đến một quyết định. Vào phút cuộc đấu bắt đầu, bà cởi hết váy xống, lao vào giữa sân, hét lớn: “Đừng cãi cọ, đừng chém giết nhau, đâu đâu cũng con cái bà, đâu đâu cũng đều là anh em!”. Tiếng thét của Kăn Kayhơâu đã đánh thức các thần linh, làm lương tri con người thức tỉnh, họ cùng lẳng lặng bỏ về. Không lâu sau, cả hai làng cùng mở lễ rửa tội và thề với các Yang xoá bỏ hết mọi thù hằn bấy lâu của đôi bên.
Cũng là nhân vật Tơ Rứt nhưng khác với nhân vật Tơ Rứt Kalang Batưng ở hệ thống truyện cổ tích thần kỳ, ở truyện Tơ Rứt làm vua kể về chàng mồ côi nghèo Tơ Rứt kết duyên cùng một nàng tiên. Nhà vua thấy nàng tiên xinh đẹp đã bắt về ép làm vợ mình, nàng câm lặng, không cười không nói. Được vợ dặn trước, một hôm, Tơ Rứt gánh theo một gánh củi đến kinh đô, vừa đi vừa rao to: “Ai mua củi cho tôi để tôi còn làm vua!”. Nghe lời rao kì lạ, nàng tiên bỗng cười nói vui vẻ. Vua đòi người bán củi vào cung, để lấy lòng người đẹp, vua cởi bỏ long bào, khoác áo người bán củi và gánh gánh củi rao đúng như Tơ Rứt đã rao. Nàng tiên (đang ở vai hoàng hậu) bảo Tơ Rứt mặc long bào ngồi lên ngai, rồi ra lệnh: “Hãy bắt chém ngay tên ngu ngốc, ngạo mạn kia cho ta!”. Quân lính chém ông vua mê gái đang đóng vai người bán củi phạm thượng. Tơ Rứt và vợ nghiễm nhiên trở thành nhà vua và hoàng hậu. Đọc qua truyện này khiến chúng ta liên tưởng đến truyện “Ai mua hành tôi” của người Kinh, thiết nghĩ cần có một sự nghiên cứu sâu về mối tương đồng của các dân tộc, giữa mối quan hệ giữa miền xuôi với miền ngược.
Truyện Tơ Rứt tậu trâu kể việc Tơ Rứt bị ông chủ đất phạt nhốt trên ngọn cây cao, nhờ chim đại bàng cứu thoát, đưa sang Lào. Ở đây, nhờ mưu mẹo, Tơ Rứt đã kiếm được nhiều trâu đem về làng cày kéo.
Như vậy nhân vật Tơ Rứt cho người đọc hiểu rõ về bản chất của con người hiền lành, đầy mưu trí khôn ngoan và luôn giúp đỡ làng bản trong cơn khốn khó. Dù là nghèo khổ hay khi đã giàu sang thì Tơ Rứt vẫn luôn luôn là người con tài giỏi của cộng đồng và đó là hình ảnh đẹp để giáo dục lối sống cho thế hệ trẻ sau này.
Bên cạnh những nhân vật luôn cứu giúp dân làng, đem đến cho dân làng những tương lai tươi sáng thì truyện cổ Cơtu vẫn còn có những con người đáng phê phán trong cuộc sống đời thường những truyện kể về Chàng Lalơau Jhơơng (Chàng lười), Chàng Kinhiar (Chàng đần), và Arưi Klúng (Chàng ngốc), đây là những con người lười biếng và ngốc nghếch, đần độn, không làm được tích sự gì mà chỉ báo hại gia đình, làm trò cười cho thiên hạ.
3. Hệ thống truyện cổ tích loài vật có mẩu truyện Voóq Ariên kể về sự nhìn nhận của nhiều con vật về con người, qua một con vật thông minh là Voóq Ariên (một loài ốc đá ở khe suối). Có một người bị mắc bẫy, Voóq Ariên cho mời các các con vật đến để nhận diện và giới thiệu với chúng. Lần lượt nhiều con vật trình bày khả năng của mình trong quan hệ với con người: chim, dúi, hổ, báo, cá, rùa, hươu, nai, bò tót, kiến, voi. Cuối cùng, Voóq Ariên nhắc lại với các loài vật rằng: "Tà hừ Tà hà (người) có hàng ngàn cái khôn mà chúng ta chưa biết được, giờ đây họ đang mắc bẫy của Cà Xau (một loài kiến đỏ, thường làm tổ ở cành cây cao), để yên thân, chúng ta nên thả cho họ về". Qua truyện này, người đọc có thể chiêm nghiệm lại mình vì con người có trí khôn siêu việt, người Cơtu đã sớm nhìn nhận về những gì mà tạo hóa đã ban cho con người có khả năng chinh phục tự nhiên và xây dựng xã hội phát triển.
Truyện Thỏ và bà kể về một con thỏ ranh ma. Bà sai thỏ đi nhổ cỏ lúa, nó nhổ sạch lúa. Nó lấy tất cả nồi niêu chén bát trùm lại rồi bám ở dưới gầm giường rên rỉ để bà tưởng nó mà đánh, khiến chúng tan hoang. Nó lừa để bà đốt chết hai đứa cháu của mình. Thỏ bỏ người bà, đi vào rừng, hắn lừa rắn hổ, lừa cả hổ, khiến hổ phải chết.
Truyện Sự tích cây đao nhằm giải thích vì sao cây này “quả lại nằm trong thân” (muốn ăn, người ta phải bổ thân cây đao ra, khoét lấy lõi đem băm vụn, giã nhuyễn rồi lọc lấy bột và nấu như nấu cơm). Truyện này lại nhắn nhủ con người phải thường xuyên lao động, tự kiếm cái ăn chứ phụ thuộc vào người khác sẽ cho kết quả tồi tệ.
Qua quá trình tìm hiểu nội dung và ý nghĩa của truyện cổ Cơtu ở Thừa Thiên Huế, chúng tôi thấy có mối quan hệ khăng khít giữa truyện cổ tích người Tà ôi với truyện cổ tích người Cơtu. Mối quan hệ này được nhận ra qua một số mẩu truyện có cốt truyện tương tự nhau, và việc cùng sử dụng một số mô típ như nhau. Đó là các mô típ “người lấy vật”, “người đàn ông có vợ bị một thứ quỷ cái quyến rũ, đặt điều, khiến đuổi hay giết vợ”, “cô gái đẹp ẩn trong cái vỏ của một con vật”, “gà ăn dòi bọ từ cơ thể người chết, để người chết có thể sống lại”,... Điều này được thể hiện dưới đây:
- Mô típ “người lấy vật”: trong Sut Kăn Mo (vật là trăn).
- Mô típ “người đàn ông có vợ bị một thứ quỷ cái quyến rũ, đặt điều, khiến đuổi hay giết vợ”: trong Chàng Arăng giết vợ (con quỷ cái là Katrâu).
- Mô típ “cô gái đẹp ẩn trong cái vỏ của một con vật hay bộ phận của con vật”: trong Nàng Palo và chàng Kăn Tưi (bộ phận của con vật là ngà voi).
- Mô típ “gà ăn dòi bọ từ cơ thể người chết, để người chết có thể sống lại”: trong Chàng Arăng giết vợ. 
Bên cạnh đó, cũng có thể tìm thấy một vài mẩu truyện của dân tộc Cơtu có nét gần gũi với truyện cổ tích người Kinh. Chẳng hạn, Tơ Rứt làm vua của người Cơtu tương tự truyện Ai mua hành tôi của người Kinh; truyện Chàng Kinhiar và Arưi Klúng, của người Cơtu, tương tự nhóm truyện về anh chồng khờ và cô vợ khôn ngoan của người Kinh,…Có điều, mức độ quan hệ, giao lưu giữa cổ tích của người Cơtu với cổ tích người Kinh không mật thiết bằng giữa cổ tích của người Tà ôi và Cơtu với nhau vì do sự cận cư, mối tương đồng văn hoá giữa các dân tộc.
Kể chuyện cổ là sinh hoạt phổ biến của những ngày mưa, những đêm dài, các thế hệ quây quần bên nhau, ngồi nghe các già làng kể lại những mẩu truyện dũng cảm, bất khuất trong việc dựng làng giữ bản, truyện về những con người hiền lành được thần thánh phù hộ để chống lại kẻ ác, truyện về những chàng hay nàng mồ côi nghèo khổ nhưng khôn khéo, thông minh,… Những mẩu truyện như thế được nhiều thế hệ con người thuộc nằm lòng. Chúng tác dụng sâu sắc trong việc giáo dục về cội nguồn, về sự hướng thiện, về sự kiên cường và lòng nhẫn nại. Hy vọng rằng, với số lượng truyện cổ tích mà chúng tôi điểm qua ở trên sẽ một phần nào giúp người đọc thấy được những điều bổ ích chính từ truyện cổ Cơtu đem lại.

Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Văn Bổn (Chủ biên) (1985), Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng, Tập 2. Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng.
2. Nguyễn Tri Hùng (1992), Truyện cổ Cơtu, NXB Đà Nẵng.
3. Nghiêm Đa Văn (2000), Truyện cổ tích Việt Nam, NXB Phụ Nữ.
4. Nguyễn Hữu Chúc, Ninh Viết Giao, Phùng Sĩ Hòa, Trần Hoàng, Trần Trọng Tân, Mai Văn Tấn (2001), Truyện cổ các dân tộc miền núi Bắc miền Trung, NXB Thuận Hóa, NXB Nghệ An, NXB Thanh Hóa.
5. Trần Nguyễn Khánh Phong (2006), Chàng Phuật Nà (Truyện cổ Tà ôi, Cơtu), NXB Thuận Hóa.
6. Trần Nguyễn Khánh Phong (2011), Truyện cổ các dân tộc thiểu số A Lưới, Giải Khuyến khích Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Bản thảo chưa xuất bản.
7. Kê Sửu (Chủ biên) (2011), Trần Nguyễn Khánh Phong, Triều Nguyên: Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Thừa Thiên Huế, 2 tập, Bản thảo được Giải Nhì B, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
8. Trần Nguyễn Khánh Phong (2012), Truyện cổ dân tộc Cơtu, Bản thảo.
9. Nguyễn Quốc Lộc (Chủ biên) (1986), Các dân tộc ít người ở Bình Trị Thiên, NXB Thuận Hóa.




[1] Ở xã Hương Lâm huyện A Lưới ngày nay có tên làng Canôn 1 và Canôn 2
[2] Yang Arơbang: Thần Trời
 


0 nhận xét: