Gươl - Biểu tượng văn hoá của người Cơ Tu*
* Kiến trúc nhà Gươl với văn hóa tín ngưỡng của người Cơtu
(Số liệu sử dụng trong bài này số liệu cũ, mang tính chất tham khảo - Chu Tu)
Hồn người Cơtu trong ngôi nhà Gươl truyền thống
(Số liệu sử dụng trong bài này số liệu cũ, mang tính chất tham khảo - Chu Tu)
++++++++
Cùng với nhà sàn Thái Tây Bắc, nhà rông của Ba Na, Gia Rai, nhà cổ Bắc Bộ, Nam Bộ... nhà Gươl là một công trình kiến trúc nhà truyền thống tiêu biểu của một số dân tộc ở Tây Nguyên và miền Trung Việt Nam, như người Cơtu. Nhà Gươl đã và đang được đánh thức trong di sản văn hóa của một vùng đất tiềm năng này.
(Khánh thành Guowl thôn A Liêng xã Ating 2.2014 – Chu Tu)
Nhà Gươl – Di sản văn
hoá của người Cơtu
Người Cơ tu hiện có gần 5 vạn người cư trú trên dãy Trường
Sơn từ tỉnh Bình Trị Thiên (cũ) đến
tỉnh Quảng Nam và được
chia làm 3 vùng: người Cơtu vùng cao (Cơtu Nal), người Cơtu vùng trung (Cơtu
Phương) và người Cơtu vùng thấp (Cơtu Đ’riu).
Trải qua bao biến động
của thiên nhiên, lịch sử, chiến tranh… người Cơtu vẫn giữ được nhiều phong tục tập
quán, lễ hội, trang phục truyền thống, nghệ thuật tạo hình, điêu khắc, âm nhạc… đã làm nên sự độc đáo và
phong phú của văn hoá
vật thể – phi vật thể trong đời
sống cộng đồng, trong đó có nhà Gươl.
Gươl của người Cơtu không phải là nhà ở mà mang chức năng công cộng như đình làng của người Kinh, nhà Gươl là “Linh hồn làng”, là loại
hình văn hoá vật thể
có giá trị đặc sắc được bảo tồn và gìn giữ. Với
chức năng không gian
hoạt động của đàn ông rất lớn. Chẳng hạn, họ có quyền lấy nhiều vợ, con theo họ
cha. Bởi vậy, tập cộng đồng
như đình làng của người Kinh, Gươl là
nơi để Hội đồng già làng (Tacooh pươl)
họp bàn và quyết định
những vấn đề hệ trọng
mang tính sống còn của cộng đồng…
nơi tổ chức nhiều lễ hội truyền thống như: Lễ ăn mừng lúa mới (Chaha Roo Tơmêê), Lễ ăn thề kết nghĩa anh em giữa
hai làng người Cơtu (Pơ-Ngoót), Lễ ăn
mừng được mùa (Bhuối
AVí)…
Xã hội của người Cơtu theo phụ hệ, ở đấy - vai trò người tục đa thê của người Cơ tu không chỉ hiện hữu trong đời sống hôn nhân mà còn được biểu hiện qua việc gọi
tên các thành phần kiến trúc của ngôi nhà Gươl như: một cột bố (zơrmâng) và nhiều
cột mẹ (tanar). Khi nghiên cứu văn
hóa tộc người Cơtu, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tộc người này có mối liên hệ
với người Việt Đông
Sơn và xa hơn nữa là văn
hóa thổ dân da đỏ châu
Mỹ.
Và với vai trò chủ nhân của một nền văn hóa đó, người Cơtu đã sáng tạo nên một tác phẩm
nghệ thuật tạo hình đặc
sắc, và là di sản văn
hoá của người Cơtu, đó là ngôi nhà GƯƠL.
Gươl, tiếng Cơ tu có nghĩa là công cộng - cộng đồng. Chính cách gọi này đã phần nào nói lên một cách
cụ thể chức năng của
công trình kiến trúc này. Nhà gươl có 3 chức năng chính: Chức năng
hành chính; Chức năng
sinh hoạt văn hóa cộng
đồng và Chức năng bảo tồn văn hóa. Tuy nhiên, 3 chức năng này không tách biệt mà gắn
kết, tác động, tương hỗ
lẫn nhau. Chẳng hạn, trong lễ hội đâm
trâu, biểu hiện của văn
hóa cộng đòng qua chức năng của ngôi nhà gươl hòa
quyện với nhau tạo nên một sắc thái văn
hóa riêng biệt, chính nó làm nên bản sắc riêng của văn hóa Cơtu.
Nhà gươl là công trình đẹp nhất, lớn nhất và quan trọng nhất mà người Cơtu đã đóng
góp và xây dựng nên. Về chức năng
hành chính. Gươl là nơi tiến hành hội họp, bàn bạc các công việc chung như:
phòng chống thú dữ, thiên tai, ban bố các quy định chung thông qua luật tục, xử phạt...Thường ngày, nơi đây là nơi vui chơi cho
thanh thiếu niên, trẻ em, thâm trí cả dệt vải, phơi lúa, ngô và làm các công việc
khác. Tuy nhiên, tính hành chính của nhà Gươl được thể hiện rõ nét nhất mà trung tâm là takovel (già
làng). Tiếp theo là thành viên nam lớn tuổi - họ như "tiểu nghị viện"
để giúp già làng các
công việc chung liên quan đến
cộng đồng. Họ củng cố
vai trò lập pháp.
Thứ đến
là trai tráng trong vel, họ là những người thực thi mệnh lệnh của già làng và
thực hiện các công việc quan trọng của cộng đồng, họ là lực lượng nòng cốt để bảo vệ cộng đồng.
Ngoài chức năng
hành chính, nhà gươl như một nhà văn
hóa, vì hầu như các sinh hoạt văn
hóa của cộng đồng đều diễn ra ở nhà gươl và
không gian xung quanh nhà gươl này, như: lễ hội đâm trâu, nghi lễ liên quan đến chu kỳ sản xuất: đi săn,
đi đặt bẫy, đi cúng rẫy mới... Ngoài ra
còn là nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật, các trò chơi dân gian của cộng đồng.
Bên cạnh đó, nhà Gươl còn như một bảo tàng
sống đầu tiên của một
tộc người - tộc người Cơtu.
Về chức năng
bảo tồn văn hóa: Khi
bước chân đến đây, ấn tượng đầu tiên ta nhìn rất rõ, đó là thành tố văn
hóa đặc sắc của người
Cơtu. Giữa sân nhà gươl là cây cột lễ với đường nét chạm trổ công phu và những hoa văn trang trí, thoạt trông ta
nhận ra những hoa văn
trên chính trang phục của người Cơtu.
Trong nhà Gươl, lưu giữ chiêng, trống, chum, choé, gùi, nỏ,
bầu nước... của vel mà không hề ai lấy trộm. Có chăng, chỉ là người nơi khác đến lấy đi...
Nó mặc nhiên tồn tại và bảo lưu từ đời
này qua đời khác, trở
thành những cổ vật quý giá, là nơi sáng tạo, nuôi dưỡng các sản phẩm văn hóa phi vật thể của vel.
Tại đây, các loại hình
văn hóa phi vật thể
như: âm nhạc, múa, hát thông qua các lễ hội, trò diễn... được diễn ra quanh năm và truyền qua nhiều thế hệ.
Hồn người Cơtu trong ngôi nhà Gươl truyền thống
Với đồng
bào Cơtu, Gươl là loại hình kiến trúc truyền thống lâu đời. Gươl là nơi để
Hội đồng già làng
(Tacooh pươl) họp bàn và phán quyết những vấn đề hệ trọng mang tính sống còn của cộng đồng... nơi để tổ chức nhiều lễ hội truyền
thống của buôn làng như: Lễ ăn
mừng lúa mới (Cha ha roo tơmêê), Lễ ăn
thề kết nghĩa anh em giữa hai làng người Cà Tu (Pơ-ngoót); Lễ ăn mừng được mùa (Bhuối aví)... Vì
thế, dù giàu hay nghèo, muốn giữ được
truyền thống thì trong bản phải có Gươl. Nhà Gươl được coi là nơi tôn kính, chốn
linh thiêng thờ các vị thần linh dân gian, ông bà tổ tiên và nơi sinh
hoạt văn hóa, tín ngưỡng
của đồng
bào Cơtu.
Người Cơtu lập làng, dựng nhà đều chọn đất.
Làng (Vêêl, Kar non, Bươl) thường được
lập theo hình vòng tròn hoặc hình bầu dục, từng ngôi nhà cận kề nhau, mái nhà
có hình mu rùa (Pỏ-acoop), ở giữa có một ngôi nhà Gươl. Người Cơtu gọi Gươl là
ngôi nhà chung “nhà Gươl”, được
lập nên bằng công sức của mọi người trong làng. Đây là nơi để
những thanh niên Cơtu chưa vợ, những người già hằng đêm đến ngủ. Bởi theo quan niệm
của người Cơtu, nhà Gươl là chốn linh thiêng nơi cư ngụ của thần linh, ông bà,
tổ tiên họ. Phụ nữ, con gái chưa chồng không được đến
Gươl. Trong Gươl mọi người không được
đánh cãi nhau… mà luôn đoàn kết đùm bọc thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh vì sự tồn tại và phát triển
giống nòi của cộng đồng
người Cơtu.
Bên trong nhà Gươl là nơi thờ các vị thần linh theo tín ngưỡng
dân gian Cà Tu, sát vách họ dành riêng một khoảng để treo sọ những con vật sau mỗi lần săn bắn được hoặc các sọ đầu trâu sau mỗi lần làng đã tổ chức lễ hội và các nhạc
cụ truyền thống.
Theo phong tục xưa, khi lập làng mới, người Cơtu đều làm nhà Gươl. Quy định này đến nay vẫn được thực hiện. Trước khi dựng
nhà Gươl, người Cơtu phải tiến hành lễ chọn đất. Việc chọn đất
lập làng và chọn đất dựng
nhà Gươl là một trong những tín ngưỡng được người Cơtu bao đời đúc kết, quan tâm. Mảnh đất được chọn để
lập làng, làm nhà Gươl là công việc của người già làng, lớn tuổi, am hiểu phong
tục - tập quán và có kinh nghiệm. Họ khấn xin thần núi, thần nước, thần đất… để xin được
dựng nhà Gươl tại nơi đó. Ở người Cơtu có nhiều cách chọn
đất để làm nhà Gươl như: Chọn đất bằng trứng gà, theo quy
ước một bên của người, một bên của ma, họ đốt trứng và nếu như trứng trào lên sang phần của ma là đất được chọn. Nếu trứng trào lên tràn sang phần của người thì
mảnh đất đó không được
chọn. Chọn đất bằng
cây đót, chọn đất bằng hai con ốc… theo phương pháp đề cập ở trên.
Sau khi đã
chọn được đất làm nền thì người Cơtu tổ
chức lễ dựng nhà Gươl. Lễ này được
tổ chức vào sáng sớm khi Mặt trời vừa mọc ở hướng Đông. Đầu
tiên là dựng cây cột cái, khi cột này được dựng ngay ngắn, già làng lấy một ít nước đổ vào cây cột cái đó như cầu mong thần linh phù hộ cho dân làng khoẻ mạnh, sống hoà
thuận, đoàn kết, hạnh
phúc, thương yêu nhau…
Khi làm nhà Gươl xong, người Cơtu tổ chức ăn mừng nhà Gươl mới
(Lang-Tơri) được tổ chức
từ 2 đến 3 ngày đêm. Lễ này thực sự là ngày vui của cả dân làng. Vì vậy mọi người
trong làng đều góp nào
rượu ngon, cá, thịt khô, gà…, các con cháu họ dù đi xa, lấy vợ, có chồng ở làng khác, bà con, họ hàng,… đều được mời về dự lễ này để cùng chung vui với làng. Tuỳ điều kiện mỗi làng mà trong ngày ăn mừng nhà Gươl mới, họ có thể giết trâu và làm cây nêu tổ
chức đâm trâu. Họ tổ
chức đánh cồng, chiêng, trống, múa hát,
uống rượu và hát lý chúc nhau, hỏi thăm
sức khoẻ.
Sau lễ này, người Cơtu cả 3 vùng: cao, trung và thấp không
còn một lễ thức nào liên quan đến
việc xây cất nhà Gươl nữa mà nhà Gươl sẽ là nơi để người Cơtu tổ chức nhiều nghi lễ liên quan đến đời sống tinh thần, lễ ăn mừng lúa mới, lễ ăn mừng kết nghĩa anh em giữa hai làng người Cơtu với nhau,
lễ cưới hỏi…
Sự linh thiêng của nhà gươl đối với người Cơ tu cũng giống như nhà dài của người Ê Đê, nhà rông của người Ba
Na, Xê Đăng, với nét độc đáo
trong kiến trúc là cây cột cái ở giữa nhà luôn có hình khắc giống với hình trên
cột đâm trâu được xem như biểu tượng
trung tâm của làng (độ
to, nhỏ của cột cái này cho biết uy quyền và sức mạnh của làng). Và vì là linh
hồn của làng, nên nhà Gươl của làng này phải do đích
thân người dân của làng ấy dựng nên.
Ngày nay người Cơtu vẫn còn lưu giữ những phong tục của dân
tộc mình, điều này cần
gìn giữ, bảo tồn và phát huy…
Đặc điểm kiến trúc
nhà Gươl Cơtu
Nhà Gươl của người Cơ tu gần giống nhà sàn của người Cơtu
nhưng được chạm khắc
công phu hơn. Phía trên hai đầu
nhà Gươl thường được
chạm, khắc hình gà trống hoặc hai đầu
trâu nhô sừng lên đối
diện. Bên trong được
chạm các hình ảnh rất độc
đáo, mang những nét văn hóa riêng của người Cơtu,
như: hình ảnh các chàng trai, thiếu nữ Cơtu múa cồng chiêng, săn bắt thú rừng... Dù có nhiều
loại Gươl, nét độc đáo của các loại này là cây cột cái ở giữa có hình khắc giống với
hình trên cột đâm trâu
(xờnuh) biểu tượng của cái trục của làng. Nhìn vào cây cột cái của nhà Gươl
(cây cột to hoặc nhỏ) chúng ta có thể biết được uy quyền và sức mạnh của làng đó.
Xung quanh cũng như những tấm ván làm vách... đều được
điêu khắc, chạm trổ
hình ảnh của các con vật gắn bó với người Cà Tu trông giống như thật: trâu, tắc
kè, trăng, kỳ đà, thằn lằn... và một số cảnh sinh hoạt đời thường của cộng đồng cũng được
thể hiện như: người đàn ông đánh trống,
phụ nữ bồng con...
Cũng bởi điêu
khắc nhà Gươl của người Cơ tu gắn với linh hồn của mỗi thôn, làng, nên người Cơ
tu tin rằng chính linh hồn của làng đã
tạo nên linh hồn cho các tác phẩm điêu
khắc.
Thường được
xây dựng ở khu vực trung tâm của cộng đồng dân cư. Nét đặc
trưng nổi bật là bộ mái cao, cuốn tròn hai đầu hồi. Nét đặc
trưng khác biệt của nhà Gươl với đa
số loại nhà của các tộc người khác là con số chẵn: số gian chẵn, số cột chẵn...
thậm trí đòn nóc cũng chẵn. Chứng tỏ quan
niệm về con số ở mỗi tộc người có nét đặc trưng riêng.
Nhà Gươl của đồng
bào Cơtu xây dựng theo một phong cách riêng biệt, thể hiện rõ nét văn hoá đặc trưng của dân tộc này và
được chính bàn
tay, khối óc của cả làng làm nên. Gươl có một cái trụ to ở chính giữa, xung
quanh nhiều trụ nhỏ kết nối với nhau thành hệ thống vững chắc. Cây cột
này khẳng định uy
quyền, sự lớn mạnh của bản này với bản khác. Xung quanh, những tấm ván thưng,
những thanh xà chạm trổ các hình con vật gắn bó mật thiết với đời sống người dân như rồng,
hổ, trâu, cảnh sinh hoạt đời
thường của cộng đồng,
và treo sọ các thú vật săn
bắn được hoặc sọ trâu
sau các lễ, treo các nhạc cụ truyền thống… Gươl là nơi thờ các vị thần
linh dân gian, ông bà tổ tiên của người Cơtu. Đây cũng là chốn linh thiêng, mọi người phải tôn kính.
Tỉ lệ chiều cao giữa mái, sàn và tổng thể là 2/1/3 - một tỉ
lệ hết sức hợp lý trong bố cục tạo hình - cho dù nghệ nhân Cơ tu không hề biết đến "tỉ lệ vàng"
trong kiến trúc. Điều đó cho thấy sự cảm nhận về nghệ thuật của những nghệ nhân làm nhà
gươl rất tinh tế, điều
này thể hiện rõ nét hơn trong kết cấu kiến trúc và nghệ thuật trang trí nhà
gươl.
Khác hẳn với lối kiến trúc chịu lực dàn đều bằng hệ thống cột - xà
thường thấy ở nhà rông hay đình làng, hệ thống chịu lực trong
kết cấu kiến trúc nhà gươl tập trung vào một cây cột "bố" được chôn rất sâu chính giữa
lòng nhà kéo dài lên đỉnh
nóc liên kết toàn bộ hệ thống dầm, xà và đòn
nóc. Như một cái ô vậy.
Đối
xứng qua cột trung tâm là những "cột mẹ", số cột gấp đôi số gian của một nhà gươl.
Các cột này liên kết với nhau thông qua hệ thống dầm, xà tạo nên một bộ khung hết
sức vững chãi. Ở hai đầu
hồi, các vách ngăn được làm bằng ván dày hoặc vỏ
cây vừa bền, vừa chắc, vừa có tác dụng như một lớp cách nhiệt, đây là tấm lá chắn cho các
chiến binh Cơ tu phòng chống thú dữ và kẻ thù nơi khác đến.
Với độ
dốc lớn nhưng hệ thống đòn mái chỉ có 1 điểm tì duy nhất lên bộ
khung và liên kết từng đôi
một tại đỉnh nóc,
nhưng không vì thế mà mái nhà gươl lại kém chịu lực, bởi toàn bộ đòn mái đã
được 2 cây đòn nóc ép chặt. Loại kết cấu 2 đòn nóc
này chưa hề thấy ở các kiến trúc gỗ khác trên đất nước ta. Vì thế, nhà gươl rất thoáng, sâu. Đó là một công trình hoàn hảo, khi ta đi vào các chi tiết, bởi nó được tính toán rất kỹ lưỡng như một hệ thống các cứ liệu khoa
học của kiến trúc.
Yếu tố nổi bật là các thành phần trang trí hoa văn hình kỉ hà, hết sức tinh
tế. Gồm các loại hình tam giác, hình tròn, hình ô trám, đường gấp khúc.... được sắp xếp rất logic, tạo nên các dải trang trí nối tiếp
theo những motip thống nhất từ trong ra ngoài.
Một điểm
khác nữa là hình tượng con người được
đưa vào khá nhiều tác
phẩm trang trí nhà gươl như cảnh sinh hoạt đời thường: giã gạo, nhảy múa, uống rượu... được chạm nổi hoặc vé rất
khéo léo trên các xà tạo dải trang trí và tô điểm nội thất ngôi nhà, vừa phá đi cảm giác trống trải của không gian rộng lớn của nó, vừa
thể hiện rõ nét các thành phần trang trí trong không gian kiến trúc nhà Gươl.
Với tính chất đặc
biệt quan trọng của một công trình trọng tâm trong buôn làng Cơtu, nên việc chọn
đất làm nhà Gươl có ý
nghĩa sống còn đối với
sự tồn vong của buôn làng theo quan niệm của họ. Vì vậy, trong các nghi lễ liên
quan đến việc xây dựng
nhà gươl, thì nghi lễ chọn đất
làm nhà gươl là có ý nghĩa quan trọng nhất.
Trước hết, già làng chọn vị trí tương đối phù hợp với công năng sử dụng của nhà gươl, đó là mảnh đất
nằm ở vị trí trung tâm của vel. Theo quan niệm của họ, thế giới vô hình luôn được chia thành 2 phần: phần
của ma và phần của con người. Do đó, trên mảnh đất dự định làm nhà Gươl, người ta
chia đất ra làm 2 phần
theo hình sống lá chuối, với quy ước một bên của ma, một bên của con người.
Ở mỗi bên sống, họ đặt một con ốc (có người gọi là ếch) được bắt ở hai nơi khác xa
nhau, nếu con "ốc ma" bò sang phần đất của người trước thì chỗ đất này không được
chọn, nếu con "ốc người" bò sang phần đất ma trước thì mảnh đất này được
chọn. Nếu trong trường hợp, cả 2 con "ốc" cùng không xâm phạm tới
"đường biên"
thì mảnh đất ấy cũng được chọn.
Một cách khác, người ta thay số lá chuối và những con ốc bằng
một quả trứng được
chia làm 2 nửa: một của ma, một của người. Quả trứng được đập
bỏ ở phần đầu tạo nên
một "chiếc nồi" nho nhỏ. Đặt
chiếc nồi này lên 3 hòn sỏi rồi đốt
lửa ở dưới, nếu trứng sôi trào ra phần đất của ma thì chỗ đất đó được chọn, nếu trứng sôi trào ra phần đất của người thì chỗ đất ấy không được chọn. Họ cho rằng, trường
hợp trứng trào sang đất
ma, điều đó có nghĩa là người đuổi
ma nên đất được chọn. Ngược lại, nếu trứng
trào sang đất của người
thì cũng có nghĩa là ma đuổi
người nên không được
chọn.
Có một cách khác khá thông dụng là lấy 6 hạt gạo nguyên mới
tróc vỏ cho vào một cái ống lồ ô trẻ đôi,
sau đó buộc kín lại để một vài canh giờ, nếu còn
nguyên là đất tốt. Nếu
các hạt gạo bị vỡ hoặc mủn ra thì mảnh đất này không thể làm nhà gươl được. Trong quá trình diễn ra nghi thức trên, nếu gặp phải
những điềm gở như cây đổ, sét đánh, khỉ kêu, thú chặn đường... thì phải hoãn ngay mọi việc. Thậm trí khi mảnh đất mới được chọn xong cũng phải bỏ.
Việc chọn đất
này không chỉ áp dụng đối
với nhà gươl, mà còn được
áp dụng trong việc chọn đất
làm nhà ở.
Và Gươl truyền thống của người Cơtu rất đẹp đó là
“Choong Gươl” dạng hình chiếc nón lá, làm nhà Gươl này rất tốn kém, đòi hỏi nhiều công sức… Kích thước khoảng 8m được chống đỡ bởi cây cột cái (Xa nuôr)
ở giữa, cùng với 8 cây cột con ở xung quanh chia đều lực bằng hai hệ thống chính xoè trên và dưới và dạng
hình chữ X đối xứng
qua cột mẹ (Tânr) được
đâm kín từ cây cột cái
ra các cột con mái nhà được
lợp bằng lá nón hoặc lá mây.
Những nỗ lực phục hồi
không gian văn hóa làng của người Cơtu
Nhà Gươl được coi là nơi tôn kính, chốn linh thiêng thờ các vị thần
linh dân gian, ông bà tổ tiên và nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào Cơtu. Thế
nhưng, trước “cơn lốc” của cuộc sống hiện đại đầy
đủ tiện nghi, sự phong
phú về đời sống tinh
thần “ăn liền” qua các
phương tiện nghe nhìn và cũng vì điều
kiện kinh tế, nhiều người Cơtu không mấy mặn mà trong việc dựng ngôi nhà cộng đồng này. Trước sự mai một
truyền thống, sự mất dần bản sắc văn
hoá, cái hồn thôn bản nhạt nhoà dần ngay trên chính mảnh đất sinh ra nó, tỉnh Quảng Nam có
chủ trương khôi phục Gươl.
Hiện nhà Gươl của đồng
bào dân tộc Cơtu từng bước được
phục hồi. Riêng tại tỉnh Quảng Nam, đến
cuối năm 2004 trong
197 buôn, làng thuộc các huyện: Nam Giang, Đông Giang, Tây Giang nơi có số đông đồng
bào dân tộc Cơ tu sinh sống, thì tại huyện Tây Giang có hơn 40/78 buôn, làng đã có nhà Gươl. Tại hai huyện
Nam Giang và Đông
Giang có 70/119 buôn, làng đã
có nhà Gươl. Các xã vùng sâu, vùng xa như xã Zuôih, Ch’Om, Tr’Hy, Axan, Atiêng,
xã Lăng… nhà Gươl từng
bước được phục hồi.
“Việc khôi phục lại nhà Gươl đối với đồng
bào nơi đây đồng nghĩa với việc về với cội
nguồn, với bản sắc văn
hoá truyền thống độc đáo của họ. Dựng hay sửa chữa Gươl luôn là việc làm hệ trọng được hội đồng già làng quyết định và đông đảo thành viên trong làng hưởng ứng tích cực”, ông Văn Quý Thành, trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện
Đông Giang,
nói.
Việc khôi phục lại nhà Gươl truyền thống luôn đồng nghĩa với việc khôi phục
lại những giá trị văn
hoá truyền thống, để
khơi dậy trong hồn của tộc người Cà Tu. Ngoài yếu tố tâm linh, văn hoá, nhà Gươl Cơtu còn
góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế, xã hội, tuyên truyền đường lối, chủ trương chính
sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước.
Việc khôi phục lại nhà Gươl truyền thống tức là góp phần vào
việc khôi phục những giá trị văn
hoá truyền thống của dân tộc Cơtu để
lưu lại cho các thế hệ con em dân tộc mai sau hiểu biết, kế thừa những giá trị
văn hoá vật chất tinh
thần của dân tộc mình, để
tồn tại không chỉ với những kiến trúc độc đáo mà còn phản ánh về vai trò và
chức năng vốn có của
nhà Gươl, tạo cho nhà Gươl luôn là một hình ảnh thân quen, gần gũi, ấm áp trong
cuộc sống mà người Cơtu đã
từng gắn bó.
Có thể nói, sự tồn tại của nhà Gươl trong đời sống văn hóa người Cơtu là một
minh chứng sống động
cho sức sống bền bỉ của nét văn
hóa cộng đồng trong
không gian văn hóa Đông Nam Á. Nó khẳng định vai trò và vị trí của
ngôi nhà Gươl trong vai trò là mắt xích của quá trình hình thành và phát triển
ngôi nhà cộng đồng ở
khu vực này. Nhà Gươl như chiếc cầu nối văn hóa xưa với nay. Nhà Gươl là bảo tàng sống về văn hóa, giúp ta hiểu thêm về
văn hóa người Cơtu, một
tộc người vùng Nam Trung Bộ của đất
nước.
(Cinet tổng hợp)
++++++++
* Tài liệu tham khảo :
- Kiến trúc nhà Gươl với văn hóa tín ngưỡng của người Cơtu
(baotang.kientrucvietnam.org.vn)
- Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Viện Dân tộc học, nxb Khoa học
Xã hội)
- http://dantocviet.vn/Content.aspx?sitepageid=205
0 nhận xét: