Rượu của người Cơtu*
Lấy rượu Tà Vạc - Nguồn: Internet
RƯỢU TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI KATU
Trần Đức Sáng
Trần Đức Sáng
1. Dẫn luận
1. Rượu trong văn hoá
nhân loại hình như đã trở thành mẫu số chung gắn liền với nhiều hoạt động. Từ
những cộng đồng nguyên thuỷ sơ khai cho đến những hội đã thấm đẫm tư duy triết
học, họ đều gặp nhau ở quan niệm “Vô tửu
bất thành lễ”, đó là chưa nói đến vai trò của rượu trong các của đời sống.
2. Do đặc điểm sinh thái
tự nhiên, cương vực cư trú cùng những hiểu biết về các loại nguyên liệu có sẵn
hay các sản phẩm từ nông nghiệp, cho nên ở mỗi tộc người đã tích lũy cho mình
một kỹ thuật chế biến và sử dụng rượu khá riêng biệt, đây chính là một trong
những đặc trưng văn hoá tộc người thông qua hình thức ẩm thực. Các tộc người ở
Tây Nguyên cho rằng: “Nhím là con vật
diệu hiền bởi nó vô tính, nó có nhiều tính năng, dạ dày của nó có tính chất kỳ
lạ khiến cho rượu trở nên tuyệt hảo. Cho đến tận ngày nay, mỗi khi bắt được con
nhím, họ lấy cái dạ dày nó đem giả với bột gạo làm chất lên men” (Dam Bo,
2003: 144).
3. Loại nước uống đặc biệt hiện diện trong đời
sống văn hoá tộc người mang đa chức năng, từ trực tiếp làm giảm những cơn khát vô hình, chuyền tải những ý
nguyện của mình đến các thế lực siêu nhiên, đến gián tiếp giải bày những tâm sự
cá nhân, cộng đồng trong những tình huống tế nhị, hay quanh co trước một sự
việc cụ thể, giúp họ giảm bớt căng thẳng do các hiện tượng thiên tai hay những
vấn đề xã hội thường xẩy ra trong cuộc sống, kết nối, mang lại tinh thần đoàn
kết tộc người. Sự bất phân ly trong nhiều nghĩa đối với thức uống này trong đời
sống tộc người, đã hình thành nên những truyền thuyết gắn với nó một cách đa
dạng trong kho tàng văn học truyền miệng của họ.
4. Qua những chuyến điền
dã ở tộc người Katu, chúng tôi thấy rằng rượu có vai trò rất quan trọng trong
đời sống văn hoá, nhân tố góp phần tạo nên những sắc thái riêng trong lĩnh vực
ẩm thực, giao tiếp, hội hè, tôn giáo, tín ngưỡng… Sự phong phú về rượu làm cho
chúng ta hiểu thêm về kho tàng tri thức bản địa, và sự đa dạng về nguyên liệu
trong địa bàn cư trú người Katu, đã tạo nên một “văn hoá rượu” riêng của người
Katu.
Từ những tài liệu đã
đọc, sau những cuộc quan sát tham dự và phỏng vấn hồi cố các “chuyên gia về
rượu”, chúng tôi thử đưa ra một số hiểu biết về các loại rượu, cách chế biến và
vai trò của nó trong cuộc sống người Katu, nhân tố đã tạo nên sự phong phú và
đa dạng trong cuộc sống văn hóa ẩm thực của tộc người này.
2. Rượu trong đời sống người Katu.
2.1. Rượu - đời sống thường nhật: nguyên liệu và kỹ thuật
chế biến
Thoạt tiên, nếu lần đầu
tiếp xúc với cộng đồng người thiểu số, rất nhiều ý kiến đánh giá chen lẫn chút
than phiền về tập tục uống rượu một cách quá độ của họ. Nhưng nếu chịu khó tìm
hiểu thật kỹ, chúng ta sẽ dần nhìn thấy sự “huyên áo” của họ về rượu: một thứ
thức uống nhiều tác dụng trong đời sống thường nhật và cũng là thức uống của thần
linh.
Khó có thể lý giải tập
tục uống rượu của con người bắt nguồn từ lúc nào[1][1], nhưng nếu nhìn từ căn nguyên, có lẽ, chúng có
mối liên hệ mật thiết, biện chứng, mang tính nhân quả với đời sống kinh tế đao canh hỏa chủng - một sự đầu tư công
sức của người lao động không nhiều, chủ yếu phụ thuộc vào tri thức bản địa và
một hệ thống phong phú thần linh bủa vây trong đời sống cá nhân lẫn cộng đồng.
Ở khu vực Tây Nguyên,
rượu cần: thức uống phổ biến trong nghi lễ được người thiểu số nhắc đến đậm sắc
màu truyền thuyết và có sự liên quan mật thiết với những tín niệm tôn giáo sơ
khai: đặc biệt một số tộc người pha chế rượu cần bắt nguồn từ những truyền
thuyết và mục đích tôn giáo “Con nhím vốn
có cái “dạ dày cao nhã”, đã dạy kỹ thuật cao cấp này”: “Làm rượu bằng quả mọng
và các thứ giả nát thì chẳng ngon. Làm bằng củ thì sẽ thành thuốc độc. Phải làm
rượu cần bằng những viên bột gạo sẽ có được một món rượu ngon… Con nhím đã dạy
phải làm bao nhiêu viên bột như vậy cho một ché rượu. Nó bày liều lượng cám;
cơm nấu chín và thảo mộc (dùng để làm chất mùi và chất lên men) cần phải trộn
với những bánh bột nhỏ; nó dạy cách đặt than hồng ở đáy ghè và một lớp cám trên
cùng, trước khi bịt thật kín. Rồi nhím tự rút dạ dày ra, giã nhỏ và trộn với
bột, vừa nói “Bao giờ cũng phải làm như thế này: rượu cần chỉ thật ngon khi có
dạ dày nhím”(Dam Bo, 2003: 143 - 144).
Tương tự như các dân tộc ở Tây Nguyên, người
Katu cũng có cách riêng để tạo ra các loại rượu, từ nguyên liệu chủ yếu là các
loại cây rừng như rượu Tà Vạc, A Dương hay từ sản phẩm nông nghiệp như Bhua thăn, Aviết, chứa v.v… Những loại
rượu này có sự khác nhau về nồng độ, chất lượng, mục đích sử dụng, nhưng chúng
vẫn góp mặt thường xuyên trong cuộc sống thường nhật cũng như các hội lớn của
làng.
* Rượu Tà Vạc
Có thể khẳng định, Tà Vạc [2][2] là loại rượu đặc sản của đồng bào Katu, được chế biến từ một loại
cây thuộc họ dừa (cọ?, đoác?), mọc nhiều ở những khe suối trong rừng. Để có
rượu uống người Katu chỉ việc lấy nước từ những buồng quả của nó [3][3], tuy nhiên hàm lượng
“tinh tửu” không nhiều như các loại khác sản phẩm chưng cất, nhưng lại tạo cho
người sử dụng những cảm giác êm ái. Vào những thập niên 30 của thế kỷ trước, Le
Pichon đã có những khảo tả và nhận xét khá thú vị về loại đặc sản này: “Những người Katu ở đồn Sáu làm rượu thoáng
có vị cồn, hương vị lý thú mà họ rất thích lấy từ một cây cọ cao đến 5m - 6m,
đọt mang những buồng trái dài với những bẹ lá rủ xuống thành một cụm dày đặc.
Họ chăm sóc cây này rất cẩn thận, và những con đường mòn tương đối tốt là những
con đường dẫn đến chỗ trồng cây “bavak”. Cây cọ này rất đặc biệt ở thung lũng A
- Pút. Tôi không nghĩ rằng các bộ tộc Mọi khác ở dãy Trường Sơn đều biết đến
cây này. Đó là cây “Đoác” đối với người An Nam ở Thừa Thiên Huế và Quảng Trị,
(Arenga sacchariferasp)” (Le Pichon, 1938: 363).
Cho đến tận ngày nay, kỹ thuật khai thác và cách làm rượu Tà Vạc của người Katu vẫn không có gì
khác, công việc này thường là do nam giới thực hiện và diễn ra theo mùa. Hàng
năm, khi tiếng chim patoong (con chim
tu hú) thúc dục người Katu lên rừng trỉa hạt, mặc dù công việc ngày mùa vất vả
nhưng họ không bao giờ quên tìm những cây Tà
Vạc có nhiều nước và ngon, nhờ vào cách nhận biết về độ tuổi cũng như môi
trường sống của cây mà người Katu dễ dàng nhận ra [4][4]. Theo luật tục Katu, nếu cá nhân hay dòng họ
nào phát hiện ra nơi có cây Tà Vạc sinh
sống, họ thường đánh dấu quyền sở hữu của mình để báo hiệu cho những người đến
sau không được khai thác [5][5].
Tuy nhiên, để có được
chén Tà Vạc ngon đãi khách, không
phải ai cũng có thể làm được. Việc khai thác nước Tà Vạc thường có những quy trình nhất định với nhiều công đoạn để
có được mẻ rượu “ngọt”[6][6]. Kinh nghiệm của người đi tìm Tà Vạc chuyên nghiệp cho thấy, độ tuổi
của cây và số lần khai thác sẽ cho số lượng nước nhiều hay ít; nếu tìm được cây
tốt, một ngày đêm có thể cho gần 20 lít nước.
Trong nguyên liệu chế
biến, dược liệu lên men duy nhất là chuônl (vỏ cây chuồn), có tác dụng tạo
màu trắng đục, đem lại vị ngọt thanh và hơi chát cho rượu. Hơn nữa, tác dụng
của vỏ cây chuồn sẽ hạn chế về các bệnh tiêu hóa cho người sử dụng, đây chính
là những kinh nghiệm quý báu giúp người Katu chống lại căn bệnh nguy hiểm này.
* Bhua thăn (rượu sắn)
Bên cạnh loại rượu Tà Vạc, người Katu có một loại rượu
không kém phần quan trọng cuộc sống thường nhật, lễ hội… được làm từ những sản
phẩm nông nghiệp[7][7] mà người gọi là Bhua thăn[8][8]. Nếu việc làm rượu Tà Vạc chủ yếu do người đàn ông, thì rượu được làm từ cây sắn lại
do người phụ nữ đảm nhiệm. Công việc này diễn ra quanh năm, và bận rộn nhất là
vào những lúc nông nhàn, kết thúc một vụ mùa bội thu, chuẩn bị thực phẩm cho mùa lễ hội, đâm trâu mừng lúa mới, hoặc
trong làng có những sự kiện trọng đại như đám cưới, lễ kết nghĩa, têng ping…
Nguyên liệu chính để làm
Bhua thăn là củ sắn, với kỹ thuật chế
biến tương đối đơn giản: người ta lấy sắn củ bóc sạch vỏ, luộc chín, để nguội,
lấy vỏ trấu trộn với men (piêng) rắc
đều lên; rồi đổ vào các loại đồ đựng đan bằng tre được lót lá chuối cẩn thận; ủ
kín từ 3 đến 5 ngày, khi sắn lên men, có mùi thơm dịu, ngọt, người ta đổ vào
các loại ché (xđúc)[9][9] và đậy kín miệng ché.
Sau khoảng thời gian 5 - 7 ngày có thể lấy ra uống[10][10], nhưng để càng lâu thì tinh tửu càng cao uống
rất ngon.
Cách tạo men rượu (piêng) của người Katu có một vài nguyên
liệu giống người người Gia Rai[11][11], men được làm từ nhiều loại cây khác nhau như
củ riềng (pari), rễ cây ớt (ria pơrớ), rễ cây abá atốc, rễ cây chơ rơ đhâng ađhi, rễ cây chè hăng v.v… giã nát, trộn lẫn bột gạo
rồi dùng tay tạo thành từng viên nhỏ phơi khô. Thông thường, người Katu chế men
vào những ngày trời nắng, rảnh việc nương rẫy. Công việc này không phải một phụ
nữ Katu nào cũng có thể làm được một cách hoàn hảo, vì lẽ đó, trong xã hội
truyền thống, ché rượu ngon nhất bao giờ cũng được dâng lên abhôyang trong những ngày lễ, và những
gia đình làm được loại men rượu ngon luôn được người trong làng kính trọng[12][12].
* AViết
(rượu mía) - là loại rượu khá đặc biệt mà chúng ta chỉ bắt gặp khi điền dã trên
địa Katu[13][13], được làm từ thân cây mía. Cách làm A Viết cũng tương đối đơn giản: người ta
cạo sạch phần vỏ, rồi thái nhỏ thân mía sau, trộn đều với một ít vỏ cây chuồn,
đem bỏ vào ché (xđúc) đổ một lượng nước tuỳ theo ý muốn của người sử dụng;
sau 3 ngày có thể lấy ra sử dụng, loại này có hương vị hơi ngọt.
Có một điều khá thú vị
về loại rượu này liên quan đến sự ra đời nguồn gốc tên họ của Kabhuh A Viết: Ngày xưa, có một gia đình
nọ mở hội ăn mừng. Sau khi đã uống quá nhiều rượu A Viết, họ đã dẫn đến cãi cọ, rồi chém giết lẫn nhau. Để ghi nhớ về
sự việc đau lòng này, con cháu họ về sau được dân làng gọi là A Viết (Lê Anh Tuấn, 2007).
* A Dương - là loại rượu được làm từ nước cây mây rừng[14][14]. So với Tà Vạc, việc khai thác loại này vất vả
hơn nhiều vì gai, và chúng thường mọc ở ven suối, kết với lại với nhau thành
những bụi rậm. Trong cách chọn lựa, người Katu chỉ lấy những cây mây to khoẻ,
cắt phần ngọn của chúng rồi đặt ống tre vào đó để nước từ vết cắt chảy ra,
trước khi uống người ta bỏ vào một ít vỏ cây chuồn.
* Chứa (rượu
dứa)
Người Tây Nguyên cho
rằng, rượu làm bằng quả mọng và các thứ giả nát thì chẳng ngon, nhưng đối với
người Katu thì rượu làm từ quả dứa lại có mùi vị đặc biệt. Điều này đã góp thêm
vào sự phong phú và đặc biệt của laọi thức uống có men của người Katu: rượu chứa[15][15]. Người Katu dùng những quả dứa đã chín, bỏ vào
một vật dụng đan bằng tre, ép lấy nước, rồi đổ vào xđúc ủ kín cùng với men và vỏ cây chuồn; khi nước lên men cho mùi
thơm mới dưa ra sử dụng.
2.2. Rượu trong đời sống văn hoá
Hầu như các tộc người cư
trú trên dải Trường Sơn - Tây Nguyên đều có thói quen uống rượu, người Katu
cũng không phải là cá biệt. Với họ, có rượu mọi vấn đề sẽ trở nên dễ dàng, kể
cả cuộc sống thường ngày cũng như vấn đề tâm linh và ngược lại. Rượu giống như
một cơ may, luôn mang lại sự vui vẻ
hạnh phúc cho bản làng. Vì vậy, những cuộc rượu mà họ tổ chức đều bắt nguồn từ một nguyên do hay công việc nào đó, bất kỳ
lớn hay nhỏ.
Nếu như sự mở đầu một
chu trình nông nghiệp Katu sẽ bằng những lễ nhỏ xin đất (Xo Catiếc), thì kết thúc của vụ mùa sẽ là một lễ lớn đó là lễ cơm
mới. Tất cả các nghi lễ trong một chu trình này đều phải có rượu, nhưng số
lượng mà người ta phải tiêu tốn nhất trong các nghi lễ này chính là lễ cơm mới,
đây được hiểu như một sự đáp ơn của con người đối với thần linh đã
ban cho họ một vụ mùa bội thu[16][16].
Trong nghi lễ vòng đời
của một con người, rượu luôn có mặt ghi dấu cuộc đời, từ việc giúp một sinh
linh bé bỏng đến với cộng đồng trong sự hân hoan, đến lễ đặt tên, cưa răng (gọt canêng), cúng mất hồn (Pachô rivai), cưới hỏi (pooi)[17][17]…; và cả khi kết thúc một kiếp người thì rượu
vẫn là bạn đồng hành để tiễn biệt họ về với thế giới tổ tiên trong nghi lễ cuối
cùng lễ bỏ mả (têng ping )[18][18].
Có thể, những tàn dư của
thời nguyên thuỷ in đậm trong tâm thức của người Katu, cho đến hôm nay, một số
sản phẩm có được trong việc khai thác, đánh bắt dù ít hay nhiều người ta đều
đem chia cho cộng đồng, và khi một
gia đình tổ chức uống rượu tại nhà làng hay bất cứ một địa điểm nào đó… điều
này có nghĩa rằng hôm đó họ đã kiếm được một món thịt thú rừng, hay khai thác
được rượu Tà Vạc…có lẽ đây là một trong những nét đặc trưng nhất trong văn hoá ẩm thực
Katu.
Sự gắn bó của rượu trong
đời sống văn hoá của người Katu đã từng được một học giả người Pháp ghi lại: “Vả chăng những cuộc chè chén là đặc điểm
chính trong một lễ hội Katu. Một người Katu sẽ nói “Hôm qua tôi say rượu”, để
giải thích rằng hôm qua đã có một lễ hội trong làng của anh ta” (Le Pichon,
1938: 363).
Trong xã hội cổ truyền
Katu, những mối cừu hận giữa các làng, cá nhân thường xuyên xẩy ra, hình bóng
của thần chết luôn rình rập tất cả mọi người, ngay cả trong những chuyện ăn
uống. Vì vậy, mỗi khi uống rượu người Katu thường nhúng một ngón tay trỏ vào chén rượu[19][19] của mình, quay mặt ra phía sau, đưa ngón tay đã
nhúng rượu lên trước miệng thổi những giọt rượu đó xuống đất (Brau), miệng cầu chúc cho những gì tốt
đẹp đến với mọi người… Động tác này sẽ tránh được những ma thuật làm hại của người khác nhắm vào bản thân mình. Hơn nữa,
trong quan niệm Katu, những vị thần tốt luôn mang lại cho họ cuộc sống yên
bình, cho nên động tác Brau còn mang
thêm ý nghĩa: mời các vị thần cùng chung vui với họ[20][20].
Nếu các tộc người ở Tây
Nguyên thường dùng cần cắm trực tiếp vào ché để uống rượu hình thành nên “văn
hoá rượu cần”, thì điều này hoàn toàn xa lạ với người Katu. Họ lấy rượu trực
tiếp từ trong xđúc ra những chiếc cốc
tự tạo hay một số chén bát quý để mời khách. Điều này tạo nên nét riêng biệt
trong văn hoá rượu của người Katu[21][21]. Hiện nay, do sự giao lưu văn hoá được mở rộng,
họ đã sử dụng cần trong một số trường hợp cho thuận lợi và thú vị lòng khách.
3. Thay lời kết.
Trải qua nhiều thế hệ
cùng những biến động của lịch sử, rượu luôn là bạn đồng hành đối với mỗi cá
nhân và cộng đồng Katu trong cuộc sống. Từ một loại hình văn hoá ẩm thực trong
lễ hội, cũng như trong cuộc sống thường ngày, rượu trở thành một thứ kết nối vô
hình giữa con người với các thế lực siêu nhiên, giúp họ có niềm tin và thêm sức
mạnh để đối diện với sự khắc nghiệt của núi rừng. Bên cạnh đó, rượu chính là sứ
giả của giao tiếp, biểu hiện lên tính nhân văn của họ trước những vị khách quý,
trong mối quan hệ xui gia, những cuộc kết nghĩa, hoà giải, hay những cuộc viếng
thăm của anh em họ hàng ở xa và cả những người lạ mặt đến thăm làng.
Ngày nay, trong sự phát triển
chung của đất nước, làng bản Katu thay đổi từng ngày. Cùng với sự chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, nương rẫy truyền thống của người Katu bị thu hẹp, chuyển sang
trồng một số cây công nghiệp có tiềm năng kinh tế như tràm, cao su v.v… Điều
này làm giảm nguồn đất để trồng và khai thác một số cây cho nguyên liệu làm
rượu. Bên cạnh đó, sự đa dạng của nền kinh tế hàng hoá vùng đồng bằng, dẫn đến,
các mặt hàng công nghiệp đã xâm nhập sâu vào cuộc sống của người dân miền núi,
trong đó rượu cồn, rượu nhà máy là một
mặt hàng dễ tiêu thụ nhất ở vùng này, bởi sự tiện lợi và đa mùi vị của chúng.
Từ những lẽ đó, người dân miền núi nói chung và người Katu nói riêng không còn bận tâm vào công việc làm rượu. Điều này, nhìn trên góc độ văn
hoá, thì “văn hoá rượu cồn” dần thay
thế văn hoá “rượu thảo mộc”, nghĩa là
đang có sự xâm lấn của “văn hoá rượu
chai, can” đến “văn hoá rượu ghè, bầu, ống tre”, theo đó, làm mất đi vai trò của những chiếc xđúc cổ quý báu vốn trước đây nó đã
chứng kiến những hình ảnh đẹp đẽ trong hội làng, đám cưới hay những cuộc giải
hoà, kết nghĩa… của chủ nhân mình.
Lớp trẻ Katu ngày nay
không mấy thích thú uống truyền thống, đáng báo động hơn khi, thay vì đi khai
thác nước Tà Vạc, Adương mang về chia sẻ cùng mọi người,
họ lại khai thác các lâm sản để đổi lấy rượu, bia. Những hình ảnh này đã làm
thay đổi một xã hội truyền thống Katu vốn hài hoà và rất nghiêm minh trong vấn
đề xử phạt theo luật tục truyền thống[22][22]. Nếu điều quan tâm nhất của cán bộ y tế là rượu
cồn rất có hại đối với sức khoẻ con người, thì đối với những người làm công tác
bảo tồn văn hoá chính là “gia tài của họ
sẽ tan hết thành rượu chỉ trong một đêm” (Dam Bo, 2003: 23).
T.Đ.S
Tài Liệu Tham Khảo
1. Anne De Hautecloque -
Howe [Nguyên Ngọc, Phùng Ngọc Châu dịch] (2004), Người Ê Đê một xã hội mẫu quyền, Hà Nội: Nxb. Văn hoá Dân tộc.
2. Bùi Đình (1963), Đường lên xứ Thượng, Tủ sách thanh niên
cộng hoà, Bộ công dân vụ xuất bản.
3. Dambo (Jacques Dournes)
[Nguyên Ngọc dịch] (2002), Miền đất huyền
ảo (Các dân tộc miền núi Nam
Đông Dương), Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn.
4. Đông A Sáng [biên dịch]
(2005), Rượu & Văn hoá Trung Hoa,
Hà Nội: Nxb. Văn hoá Thông tin.
5. Georges Condominas
(2003), Chúng tôi ăn rừng - Thần Gôo,
Hà Nội: Nxb. Thế Giới - Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
6. Hoàng Hương Việt (2002),
“Rượu Tàvạt”, trong Văn hoá Quảng Nam,
số 31, trang 46 - 47.
7. Le Pichon (1938), “Les chasseurs de sang”, trong B.A.V.H, No. 4.
8. Lê Anh Tuấn (2007), ‘‘Tìm hiểu dòng họ Katu qua
những câu chuyện về nguồn gốc và tín ngưỡng’’, trong Thông tin Khoa học, Huế: Phân viện nghiên cứu Văn hoá thông tin tại
Huế, số tháng 3, trang 80 - 95.
9.
Lê Bá Thảo (1977), Thiên
nhiên Việt Nam,
Hà Nội: Nxb. Khoa học và Kỹ thuật.
10.
M.O.Kosven [Lại Cao Nguyên dịch] (2005), Sơ yếu lịch sử văn hoá nguyên thuỷ [tái
bản lần thứ nhất], Hà Nội: Nxb. Khoa học xã hội.
11. Nguyễn Hữu Thông (2003), “Men nồng Tà vạt trong hương rừng Cơtu”,
trong T/c Văn hoá Quảng Nam, số 38,
trang 26, 28.
12. Nguyễn Hữu Thông [Ch.b] (2004), Katu kẻ sống đầu ngọn nước, Huế: Nxb. Thuận Hoá.
13. Nguyễn Hữu Thông [Ch.b] (2005), Văn hoá làng miền núi Trung bộ Việt Nam: Những giá trị truyền thống và
những bước chuyển lịch sử, Huế: Nxb. Thuận Hoá.
14. Tạ Đức (2002), Tìm hiểu văn
hoá Katu, Huế: Nxb. Thuận Hoá.
15. Tôn Nữ Khánh Trang (2002), “Chuyện ăn uống của người Katu - dẫn
liệu từ một ngôi làng”, trong Thông tin
Khoa học, Huế: Phân viện nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại Huế, số tháng 9.
[1][1] Theo M.O.Kosven thì: Từ lâu người ta đã biết làm đồ kích thích
và đồ say, hoặc làm đồ uống hoặc nhấm nháp trong miệng… ở người Pô - li - nê -
di - a và một bộ phận của người Anh - điêng dùng rượu mạnh là ka - va chế bằng
những cây thuộc loài hồ tiêu, … Người nguyên thuỷ cũng có chè, rượu bia, rượu
chua (kvas), rượu sữa ngựa (koumys), mật ong, rượu chà là, tất nhiên có cả rượu
nho nữa. (M.O.Kosven, 2005: 161).
[2][2] Truyền thuyết Katu kể rằng: “Ngày xưa ở một triền rẫy nọ có một cây Tà
Vạt toả bóng mát, được dân làng dọn sạch cỏ rác, vun gốc, chăm bón như cây
trong vườn, dùng làm nơi nghỉ nghơi, trú nắng trong lúc làm rẫy oi bức. Mùa rẫy
năm đó, khi cây lúa, cây bắp sắp đến kỳ thu hoạch thì những bầy khỉ kéo đến,
chuyển từ các lùm cây xuống phá hoại hoa màu. Để xua đuổi bầy khỉ, bà con đàn
phải đốn cây ấy đi. Khi chặt những tàu lá, cọng buồng Tà vạt bị dập họ thấy
những giọt nước trong veo chảy ra, có mùi thơm kỳ lạ. hấm thử, nước cọ vị ngọt
dễ chịu, bà con lấy nước để uống, cảm thấy mát dịu” (Hoàng Hương Việt, 2002: 46).
[3][3] Rất nhiều tộc người trên dãy Trường Sơn
đều dùng nước cây đoác để làm rượu,
nhưng cách làm và sử dụng đều khác nhau. Ví dụ: các tộc người ở miền núi Quảng
Bình cũng khai thác loại rượu này nhưng không phổ biến, họ gọi là Pà đô cá pác, cách khai thác cũng gần
giống với một số tộc người cư trú trên dãy Trường Sơn, nhưng trước đặt ống tre
lấy nước, người ta thường cho vào đó một số vật liệu lên men như: cà chăm (tấu), vỏ cây chàng hang, rễ tiêu (ớt), rễ cây cau… sau đó lấy một hòn đá ở lèn cho vào ống
để làm cho nước rượu trong…
[5][5] Người Katu có nhiều kiểu làm ám hiệu để
biểu hiện quyền sở hữu của mình. Ví dụ: người ta dùng rựa chặt một tàu lá Tà Vạc làm chỉ vào khu vực mình đã chọn,
hoặc đánh dấu X vào tất cả các cây mà họ
dự định khai thác, hoặc đùng một cành cây rừng cắm xuống một một vị trí nào gần
đó, ở phía trên đầu cây người ta đặt một cành nhỏ chỉ về phía cây mình đã chọn…
[6][6] Xem thêm: Hoàng Hương Việt (2002), “Rượu
Tàvạt”, trong Văn hoá Quảng Nam, số
31: 46 - 47; Nguyễn Hữu Thông (2003), “Men nồng Tàvạt trong hương rừng Cơtu”,
trong Văn hóa Quảng Nam, số 38: 26,
28, Tạ Đức (2002), Tìm hiểu văn hoá
Katu, Huế: Nxb. Thuận Hoá.
[7][7] Khác với người Katu, các tộc người thiểu
số ở phía Bắc, nguyên liệu làm rượu bao giờ cũng là ngô, nếp, gạo… người ta ít
khi dùng sắn làm rượu, người Tây Nguyên cũng vậy, gạo nếp luôn là một trong
những nguyên liệu làm rượu ngon nhất.
[8][8] Trong ngôn ngữ Katu từ bhua được hiểu chung là rượu, nhưng hiểu
chính xác thì đây là loại rượu được làm từ củ sắn, còn các tên gọi Alắc, xiêu… có nghĩa là rượu trắng của
người Kinh chưng cất, hay các thương lái người ở vùng đồng bằng mang lên. Đối
với các loại Tàvạt, adương, chứa, Aviết… người ta chỉ gọi tên của chúng mà thôi. Ví dụ: Nếu một
người Katu mời ai đó uống Tàvạt, adương, chứa, aviết… nhưng thực chất đó chính là rượu được làm từ các loại
cây này.
[9][9] Đồ đựng rượu ở người Katu chủ yếu là các
loại ché cổ, phần nhiều có nguồn gốc từ đồng bằng, họ có được các vật dụng này
thông qua các con đường trao đổi hàng hoá với các thương lái người Kinh, vì vậy
trong quan niệm của truyền thống của người Katu, vật dụng này là tài sản vô giá
có thể đổi/sánh ngang với người phụ nữ xinh đẹp.
[10][10] Cũng giống như các loại rượu của người
Tây Nguyên, nước rượu đầu tiên bao giờ cũng ngon nhất, khi uống cạn rượu bên
trong, người ta lại đổ thêm nước, khi tinh tửu không còn họ mới bỏ đi.
[11][11] Men rượu của người Giarai được làm từ gạo, ớt, riềng củ, cây ram, rễ cây pơ riăngví, nhựa cây mã tiền (phul kran)…giã nát, vắt thành từng viên nhỏ phơi kho
hoặc bỏ lên giàn bếp rồi dùng dần.
[12][12] Ở người Tây Nguyên: “Hai người đàn bà đã làm ra ché rượu cần đầu tiên dưới sự chứng giám
của Thần nhím, từ đó công việc này luôn là của đàn bà. Khi mở ché rượu cần,
chén rượu đầu tiên bao giờ cũng dâng các Thần để tỏ lòng biết ơn họ đã cho
người món ăn tuyệt hảo này” (Dam Bo, 2003: 143 - 144).
Khác với người Katu, Jarai, trong quan niệm người Hrê, gia đình
nào làm men rượu là mạt nghệ, giã men trong nhà sẽ làm cho gia đình luẩn quẩn,
nhà nào sa sút, cô quả, không nơi nương tựa mới chịu làm men để sinh sống (Bùi
Đình, 1963: 31).
[13][13] Trong tiếng Katu, cây mía được họ gọi với
cái tên rất phổ biến là Atao, nhưng
loại này được đem làm rượu thì họ lại gọi là Aviết.
[14][14] Trong các loại mây rừng thì chỉ có loại Adương cho nhiều nước và uống rất ngon,
nên người ta gọi chúng theo tên của cây.
[15][15] Trước đây rượu dứa rất quý, bởi lượng
nước trong quả rất ít, nếu làm nhiều thì không có đủ nguyên liệu
[16][16] Số lượng rượu trong lễ cơm mới của người Katu sẽ tuỳ thuộc
vào sản phẩm của vụ mùa, trước đây, mỗi khi tiến hành nghi lễ các hộ gia
đình/các bếp thường đóng góp ít nhất là 1 ché rượu.
[17][17] Luật tục Katu quy định: trong lễ vật hôn nhân mà nhà trai
mang sang cho nhà gái không bao giờ có rượu đi kèm. Ngược lại, khi nhà gái nhận
lễ cảm ơn dân làng (tắp blo) do nhà
trai tổ chức, thì nhà gái sẽ đáp lễ tại nhà trai bằng lễ gùi rượu (Vui bhua).
[18][18] Trong cuộc đời
của một con người thì nghi lễ cuối cùng mà người sống dành cho người chết đó là
lễ bỏ mả đây được coi là một trong những nghi lễ lớn nhất của người Katu. Một
số lể bỏ mả của người Katu ở Thượng Long, Thượng Quảng mà chúng tôi có dịp may
để tham dự, trong lễ này họ phải sử dụng gần 500 kg sắn làm rượu, bên cạnh đó
các loại rượu do người Kinh chưng cất cũng lên tới 30 - 40 lít… Trong nghi lễ
này người Katu dùng rượu, máu của vật hiến sinh cùng một số thức ăn bỏ vào một
ống tre, đặt ra ngoài đường để ngăn cản các hồn ma không nơi nương tựa vào khu vực thiêng mà họ đang tổ chức.
Ở
vùng Êđê, trong một đám ma bao giờ họ cũng lấy rượu làm nước thiêng, có khi còn
trộn với máu của vật hiến sinh, người ta dùng bông hoặc một cành lá nhúng vào
rượu cần rồi vẩy lên người chết, quan tài, chủ lễ… (Dam Bo, 2003: 380).
[19][19] Trong xã hội cổ truyền các vật dụng dùng
để đựng nước hay uống đối với họ quả là một vấn đề khó khăn, hơn nữa trong quan
niệm Katu, lúc uống người ta kiêng làm đổ các thức ăn hay uống xuống sàn nhà,
cho nên họ thường dùng những ống lồ ô, hay nứa để làm đồ uống rượu, một ở phần
dưới đáy cốc người ta không cắt
ngang, để lại một phần và khi đặt chén
xuống mặt sàn, phần này có tác dụng giữ ống tre khỏ bị ngã.
[20][20] Trong các chuyến điền dã, chúng tôi có
nhiều cơ hội uống rượu với tộc người
Tà Ôi, Vân Kiều, Jẻ Triêng … nhưng ở họ, những phép thuật không thấy.
[21][21] Ở người Hrê, các nhà giàu thường làm một
cột rượu nằm ngay giữa nhà, chạm trổ rất công phu, khi uống người chủ cầm cần (triêng) mời khách, người ta rất kỵ cắm
cần ngược. Để tránh bị đầu độc, người Hrê không bao giờ uống ngay hớp rượu đầu
tiên mà phải nhổ ra, dần dần trở thành một tục lệ trong đời sống của họ. Nhưng
đối với tộc nguời Kơho, khi uống rượu chủ nhà thường dùng ché cá nhân (dung
tích gần 1 lít) lấy rượu từ trong ché ra, uống trước một ngụm nhỏ rồi mời khách
uống. Xem thêm: Bùi Đình (1963) Đường lên
xứ Thượng, Tủ sách thanh niên cộng hoà, Bộ công dân vụ xuất bản.
Ở người Ê đê, tầm quan
trọng của lễ hiến sinh thường được tính bằng rượu, các ché rượu được bài trí
giống nhau trong phòng chung, các ché được cột vào những chiếc cọc theo một
đường song song. Trước khi uống rượu người ta thường nếm rượu, bằng cách lấy
một ít rượu từ các ché vào một chiếc bát đồng. Tiếp theo chủ lễ mời người hưởng
phúc đến bên ché rượu và đeo vào cổ tay anh ta một chiếc vòng bằng đồng, rồi
đọc một lời khấn ngắn trong khi anh ta uống rượu, tiếp theo là thứ tự của mọi
người vào uống (Anne De Hautecloque - Howe, 2004)
[22][22] Trong xã hội cổ truyền Katu, những người say rượu không có
lý do sẽ bị phạt nặng, điều này cũng tương tự giống người nguyên thuỷ được M.O.Kosven
mô tả “Người nguyên thuỷ không quen uống
rượu say be bét, người say rượu luôn bị mọi người chê cười, trong xã hội nguyên
thuỷ, đó là điều ngăn cấm có hiệu lực” (M.O.Kosven, 2005: 161).
0 nhận xét: